Giấc mơ ôtô Việt
Theo Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng: "Chính phủ vừa thông qua Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô đến năm 2030, Bộ sẽ tích cực triển khai theo chiến lược này, hướng sắp tới là sẽ tập trung nguồn lực vào phân khúc riêng, dòng xe riêng của Việt Nam và chọn nhà đầu tư cụ thể để xây dựng dòng xe hơi cho Việt Nam trên cơ sở doanh nghiệp (DN) có uy tín và có thị trường".
Đó chính là câu trả lời của ông Dũng cho câu hỏi: “Mỗi quốc gia châu Á đều xây dựng những thương hiệu riêng, Việt Nam lựa chọn thương hiệu nào để nổi tiếng hơn?” tại hội thảo Đối thoại chính sách đầu tư 2016 ngày 28/6.
Ông Nguyễn Chí Dũng thừa nhận: Thời gian qua, Việt Nam có chiến lược phát triển công nghiệp ô tô nhưng không được thành công cho lắm. Nguyên do là khi xây dựng thì kinh nghiệm và nhận định của Việt Nam về thị trường ô tô chưa đầy đủ. Thị trường sản xuất ô tô Việt Nam không lớn, mỗi năm sản xuất không quá 200.000 xe, nhưng cả nước hiện có 14 cơ sở lắp ráp ô tô. Nếu sức tiêu thụ này chia đều cho các cơ sở thì miếng bánh quá nhỏ, không thể hình thành một thương hiệu nào cho xe ô tô riêng của Việt Nam cả.
Chiến lược công nghiệp ô tô Việt Nam có lịch sử 20 năm, đánh dấu bằng sự ra đời của liên doanh Công ty Toyota Việt Nam (1995) và 13 năm xây dựng với quyết tâm nội địa hóa (NĐH) các dòng xe ô tô sản xuất tại Việt Nam từ năm 2002. Vì muốn Việt Nam có một ngành công nghiệp ô tô đúng nghĩa, Chính phủ đã 3 lần phê duyệt Quyết định phát triển cho ngành này.
Ban đầu là quyết định 175/2002/QĐ-TTg và Quyết định 177/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, yêu cầu 2005, các DN ô tô phải đạt tỷ lệ NĐH đối với dòng xe phổ thông là 40% và đến 2010 đạt 60%; đối với xe cao cấp tỷ lệ NĐH đến năm 2010 đạt 35-40%. Năm 2007, Chính phủ thêm quyết định xếp công nghiệp ô tô vào “công nghiệp mũi nhọn” với hàng loạt ưu đãi chính sách, thuế đất, phí nhập khẩu… Tuy nhiên, đến năm 2010, tỷ lệ xe ô tô sản xuất tại Việt Nam được NĐH vẫn “lẹt đẹt”.
Tháng 7/2014, Chính phủ phê duyệt Quyết định Số 1211/QĐ-TTg về Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Trong Quyết định này, đến năm 2020, xe ô tô đến 9 chỗ - ô tô tải phải có tỷ lệ NĐH từ thấp nhất là 30%, cao nhất là 45%, năm 2025 là 40 - 70%, 2030 là 50 - 75% xe chuyên dùng thấp nhất là 25% và cao nhất là 60%.
Bao giờ Việt Nam mới đuổi kịp Thái Lan
Việt Nam sẽ có dòng xe ô tô của riêng mình? |
Trong hơn 20 năm, Việt Nam đã "trải thảm" nhiều chính sách để có ô tô riêng, tuy nhiên lại không ràng buộc rõ trách nhiệm DN không đạt mục tiêu. Đáng lẽ, tỷ lệ NĐH xe thông thường năm 2005 phải đạt 40%, nhưng đến tận năm 2010 mục tiêu này vẫn không đạt được. Nguyên nhân được chỉ ra do Việt Nam thiếu công nghiệp hỗ trợ đúng nghĩa; chính sách ưu đãi "cào bằng" và quá phụ thuộc chủ yếu vào DN liên doanh và FDI khi xây dựng chiến lược cho quốc gia.
Đáng nói, trong khi chiến lược NĐH 20 năm vẫn dang dở thì thị trường ô tô Việt Nam lại chứng kiến sự xâm nhập mạnh mẽ của các dòng xe liên doanh từ Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ. Sự đổ bộ ồ ạt, ngày càng mạnh mẽ này được cộng hưởng thêm bằng cơ chế thuế quan đã và đang dần được tháo gỡ, xóa bỏ nhanh chóng. Điều này gây lo ngại, Việt Nam sẽ thêm một lần thất bại nếu không nhìn thẳng sự thật và đầu tư nguồn lực đúng chỗ.
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long từng cho rằng: "Nếu Thái Lan thành công khi chọn dòng xe bán tải là dòng xe chiến lược; Ấn Độ là dòng xe rẻ, cỡ nhỏ, Malaysia là vùng đất sản xuất linh kiện ô tô thì Việt Nam đang loay hoay với câu hỏi: làm sản phẩm gì? làm ra sao và ai làm? Chúng ta đang ở trong căn bếp mà người ăn có, khẩu phần ăn có nhưng chưa biết mua nguyên liệu gì để chế biến cho dù chúng ta rất giỏi làm bếp"
Hiện số lượng xe được các nhà sản xuất và lắp ráp ôtô Việt Nam nhập khẩu từ Thái Lan đưa về Việt Nam bán đang ngày càng tăng vì lợi thế về thuế nhập khẩu và nhiều chủng loại.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, hiện Thái Lan là nước có kim ngạch xuất khẩu ô tô nguyên chiếc lớn nhất vào Việt Nam. Mới chỉ 5 tháng đầu năm 2016, Việt Nam đã nhập 12.538 ô tô nguyên chiếc với giá trị 225,8 triệu USD từ Thái Lan. Xét cả về giá trị kim ngạch lẫn số lượng, Thái Lan đã chính thức vượt qua Trung Quốc trở thành “cường quốc” ô tô mới tại Việt Nam.
Hiện, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam ngày càng bị thách thức nghiêm trọng khi Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng sâu, rộng vào việc loại bỏ hàng rào thuế quan, mở cửa hoàn toàn thị trường trong các sân chơi tự do hóa song và đa phương.
Khi thuế về 0%...
Để tiếp tục “giấc mơ xe hơi” còn dang dở, tháng 2/2016, Chính phủ đã ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách thực hiện Chiến lược và Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất các dòng xe ưu tiên được hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại. Với doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu trong sản xuất, xuất khẩu linh kiện, phụ tùng và xe nguyên chiếc, được hưởng chính sách tín dụng xuất khẩu theo quy định hiện hành.
Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi về thuế đối với phát triển ngành công nghiệp ô tô và nhiều những ưu đãi khác cho các doanh nghiệp muốn tham gia sân chơi nay cũng được đề ra… Đây từng được coi là “tin vui” đối với ngành công nghiệp ô tô.
Theo cam kết Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), năm 2018 thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ bị xóa bỏ. Năm 2015, mức thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc (CBU), linh phụ kiện được áp mức thuế 50%. Năm 2016 còn 40%, năm 2017 là 30% và năm 2018 sẽ giảm xuống 0%.
Điều kiện để ô tô CBU, linh phụ kiện được giảm thuế theo lộ trình của ATIGA là có tỷ lệ nội địa hóa từ 40% trở lên. Với điều kiện này, thì hầu hết các nước có nền sản xuất ô tô phát triển hơn Việt Nam trong ASEAN (chủ yếu là ba nước Thái Lan, Indonesia và Malaysia) đều đáp ứng được, bởi hiện tỷ lệ nội địa hóa của ngành sản xuất ô tô trong ASEAN đạt mức 65 - 70%, trong đó ô tô Thái Lan có tỷ lệ nội địa hóa cao nhất đạt 80% các dòng xe.
Đáng nói, ngoài ASEAN, các xe nhập khẩu từ EU hoặc Mỹ cũng có thuế 0% trong vòng 10 năm nữa khi FTA Việt Nam - EU và Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực. Như vậy, chính sách đối với dòng xe riêng của Việt Nam đang đặt trong hoàn cảnh khó khăn, chịu sức ép rất lớn từ nhiều phía.
Bởi chính sách được đánh giá là rất quan trọng đối với bất kỳ sự phát triển của ngành nào. Sự thiếu ổn định về chính sách đã khiến các doanh nghiệp ngành ô tô không biết đường nào mà hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, bởi vì bất kể là dòng xe nào cũng cần ít nhất từ 3-5 năm chuẩn bị đầu tư.
Đó cũng là lý do, vì sao nhiều doanh nghiệp chọn phương án nhập khẩu xe thay vì lắp ráp tại Việt Nam, vì đó là phương án kinh doanh an toàn, giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận.
Trở lại với câu trả lời mới đây của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng về định hướng phát triển ngành công nghiệp ô tô: “Sắp tới sẽ cố gắng tập trung vào phân khúc xe riêng, một dòng xe nào đó, thương hiệu nào đó với một nhà đầu tư có uy tín, có thị trường trên thế giới… để hình thành và tham gia vào chuỗi sản xuất thế giới, xây dựng dòng xe hơi mang thương hiệu cho Việt Nam”.
Hy vọng với việc xác định đúng phân khúc sản phẩm có thể mang lại sự cạnh tranh, cùng với đó với những nỗ lực, quyết tâm cao của Chính phủ trong việc tạo đường lối chính sách, hỗ trợ tối đa các doanh nghiệp... Việt Nam sẽ sớm có dòng xe ô tô mang thương hiệu riêng…