Giá cà phê không đổi
Trên thị trường quốc tế, giá cà phê diễn biến trái chiều nhưng xu hướng chung là tăng nhẹ. Tại London, giá robusta kỳ hạn tháng 1/2026 tăng lên 4.331 USD/tấn, còn kỳ hạn tháng 3/2026 đạt 4.244 USD/tấn. Tại New York, arabica cũng tăng lên 409,2 cent/lb đối với kỳ hạn tháng 12/2025 và 376,15 cent/lb đối với kỳ hạn tháng 3/2026.
Giá cà phê trong nước hôm nay 8/12/2025 tại khu vực Tây Nguyên không thay đổi, dao động trong khoảng 103.300 - 104.000 đồng/kg.
Cụ thể, tại tỉnh Lâm Đồng, khu vực Di Linh, Bảo Lộc và Lâm Hà giao dịch cùng mức 103.300 đ/kg.
Tại tỉnh Đắk Lắk, khu vực Cư M'gar hôm nay đang thu mua cà phê ở mức 104.000 đ/kg. Còn khu vực Ea H'leo và Buôn Hồ giao dịch ở mức giá 103.900 đ/kg.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Ở Đắk Nông (tỉnh Lâm Đồng), thương lái Gia Nghĩa và Đắk R'lấp lần lượt giao dịch ở mức 104.000 và 103.900 đ/kg.
Tại tỉnh Gia Lai, khu vực Chư Prông đang giao dịch với giá 103.600 đ/kg, còn Pleiku và La Grai đang ở mức 103.500 đ/kg.
Tuần từ 1/12 đến 7/12, giá cà phê tại khu vực Tây Nguyên giảm mạnh từ 8.000 đến 8.500 đồng/kg. Cụ thể, tại Lâm Đồng, giá cà phê giảm 8.000 đồng/kg. Tại Đắk Lắk và Gia Lai, giá cà phê giảm đến 8.300 đồng/kg. Giá cà phê tại Đắk Nông có mức giảm lớn nhất 8.500 đồng/kg so với tháng trước.
Đà giảm xuất hiện khi đồng Real của Brazil suy yếu so với USD, tạo áp lực lên giá Arabica. Bên cạnh đó, vụ thu hoạch cà phê tại Việt Nam đang vào cao điểm khiến nguồn cung tăng nhanh, tiếp tục gây sức ép lên thị trường từ đầu tháng.
Các chuyên gia cho rằng ngành cà phê Việt Nam vẫn giữ vị thế quan trọng khi kim ngạch xuất khẩu tiếp tục lập kỷ lục mới. Giá trị xuất khẩu năm 2025 được kỳ vọng vượt mốc 8 tỷ USD, cao hơn nhiều so với kỷ lục 5,62 tỷ USD của năm 2024, đưa cà phê trở thành một trong những mặt hàng tăng trưởng mạnh nhất.
Xu hướng giá cà phê toàn cầu trong thời gian tới sẽ phụ thuộc lớn vào tiến độ thu hoạch ở Việt Nam và diễn biến thời tiết tại các vùng trồng chủ lực của Nam Mỹ. Việt Nam, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên, tiếp tục đóng vai trò trung tâm của nguồn cung khi chiếm tới 90% sản lượng cà phê cả nước. Lâm Đồng dẫn đầu khu vực với hơn 328.650 ha trồng cà phê và sản lượng khoảng 200.000 tấn.
Về vụ thu hoạch năm nay, sản lượng được dự báo cao hơn 10% so với mùa trước. Tuy nhiên, nếu trong vài tuần tới xuất hiện thêm nhiều đợt mưa, chất lượng hạt cà phê có thể bị ảnh hưởng, tạo ra biến động mới cho thị trường.
Giá hồ tiêu ổn định
Giá tiêu trong nước tuần qua giảm mạnh từ 2.000 đến 3.000 đồng/kg. Cụ thể, giá tiêu Đắk Lắk được thu mua ở mức 149.000 đồng/kg, không thay đổi so với hôm qua. Giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) thu mua ở mức 147.500 đồng/kg, không thay đổi so với hôm qua. Giá tiêu Đắk Nông hôm nay ghi nhận ở mức 149.000 đồng/kg, không thay đổi so với hôm qua.
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu hiện ở mức 147.500 đồng/kg, không thay đổi so với hôm qua; tại Bình Phước giá tiêu hôm nay ở mức 148.000 đồng/kg, không thay đổi so với hôm qua.
Cập nhật giá tiêu thế giới từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), kết thúc phiên giao dịch gần nhất, IPC niêm yết giá tiêu đen Lampung của Indonesia đạt 6,995 USD/tấn, giá tiêu trắng Muntok đạt 9,643 USD/tấn.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Giá tiêu đen ASTA 570 của Brazil ở mức 6,150 USD/tấn. Giá tiêu đen ASTA của Malaysia ở mức 9,000 USD/tấn; giá tiêu trắng ASTA của nước này đạt 12,000 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam hôm nay giao dịch ở 6,500 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 6,700 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 9,250 USD/tấn.
Trong tháng 11/2025, xuất khẩu tiêu đạt 18.582 tấn với giá trị 121,5 triệu USD. Mặc dù giảm nhẹ so với tháng trước, mức tăng hơn 16% về lượng và hơn 14% về giá trị so với cùng kỳ 2024 giúp giá tiêu duy trì nền tảng ổn định. Giá tiêu đen xuất khẩu đạt bình quân 6.519 USD/tấn, còn tiêu trắng đạt 8.072 USD/tấn, tạo mặt bằng giá tương đối cao so với đầu năm.
Nhiều doanh nghiệp chủ lực tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu. Olam Việt Nam ghi nhận mức tăng mạnh nhất trong tháng với gần 2.000 tấn; trong khi Phúc Sinh, Simexco Đắk Lắk hay Nedspice cũng đóng góp sản lượng lớn. Sự tham gia đều đặn của các đơn vị này giúp dòng chảy hàng hóa ổn định, giữ cho giá tiêu không biến động quá mạnh.
Thị trường Mỹ tiếp tục dẫn đầu với 4.587 tấn, chiếm gần 25% lượng xuất khẩu tháng 11. UAE, Trung Quốc, Đức và Thái Lan cũng duy trì nhu cầu cao, tạo lực hỗ trợ rõ rệt cho giá tiêu. Dù một số thị trường giảm mua do suy yếu kinh tế, tổng thể nhu cầu vẫn giữ mức tích cực.
Tính đến hết tháng 11/2025, tổng lượng tiêu xuất khẩu đạt 225.009 tấn với giá trị gần 1,52 tỷ USD. Con số này vượt xa mức của các năm trước và được xem là kỷ lục mới của ngành. Lượng xuất khẩu giảm nhẹ nhưng giá trị tăng hơn 24% nhờ giá xuất khẩu duy trì ở mức cao trên 6.600 USD/tấn với tiêu đen và hơn 8.600 USD/tấn với tiêu trắng.
Trong 11 tháng, Olam Việt Nam, Nedspice, Phúc Sinh và Simexco tiếp tục nằm trong nhóm dẫn đầu. Mỗi đơn vị đóng góp từ 8-10% tổng lượng xuất khẩu, góp phần giữ nguồn cung toàn cầu ổn định. Đáng chú ý, một số doanh nghiệp tuy giảm sản lượng nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng đáng kể nhờ lợi thế giá cao.
Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất dù lượng nhập giảm so với năm 2024. Ngược lại, UAE và Trung Quốc tăng mạnh nhu cầu, đặc biệt Trung Quốc tăng tới hơn 83%, giúp cân bằng lượng tiêu xuất khẩu. Các thị trường như Ấn Độ và Đức cũng duy trì vai trò quan trọng dù có biến động.
Với lực đẩy từ kim ngạch xuất khẩu và nhu cầu quốc tế, giá tiêu đang giữ nền vững và có khả năng duy trì xu hướng tích cực trong thời gian tới. Các yếu tố cung - cầu cho thấy thị trường vẫn trong trạng thái khỏe, hỗ trợ cho kỳ vọng giá tiếp tục ổn định trong ngắn hạn.





