Các bị cáo tại phiên tòa - Ảnh: Tân Tiến. |
Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc (bào chữa cho bị cáo Phạm Thị Thu Hiền), trình bày: “Cáo trạng số 80 ngày 17/11/2017 của Viện KSND Tối cao căn cứ vào bản án phúc thẩm số 02/2015/HSPT ngày 7/1/2015 của tòa phúc thẩm TAND Tối cao đã có hiệu lực để kết luận 200 tỷ đồng của Navibank đã bị Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt. Từ đó xác định các bị cáo đã “gây hậu quả” theo điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999, là không đúng. Tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xử Huyền Như, có 9/10 bị cáo là cán bộ Navibank không được tham dự với bất kỳ tư cách gì để họ được tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình theo quy định pháp luật (riêng Đoàn Đăng Luật tham gia với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, cũng không được tham gia tranh tụng về thiệt hại 200 tỷ đồng của Navibank). Nay bản án phúc thẩm số 02 đã có hiệu lực pháp luật. Còn tại phiên tòa này, HĐXX cũng dựa vào bản án số 02, để mặc nhiên xem các bị cáo trong vụ án này đã “gây hậu quả” 200 tỷ đồng mà không cần chứng minh. Theo các bị cáo, nếu được tham gia các phiên tòa xét xử vụ án Huyền Như, họ hoàn toàn có thể chứng minh được 200 tỷ đồng của Navibank không bị Huyền Như chiếm đoạt và trách nhiệm liên quan đến Huyền Như tại Vietinbank TP Hồ Chí Minh hoàn toàn thuộc về chi nhánh này, và do đó sẽ không có phiên tòa xét xử các bị cáo hôm nay.
“Với những nội dung vụ án được minh định tại tòa, cho thấy các bị cáo bị oan trong việc bị xử lý hình sự, rất cần được HĐXX tuyên các bị cáo không phạm tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, luật sư Phúc, nói thêm.
Đồng quan điểm với Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc, Luật sư Ngô Anh Tuấn (bào chữa cho bị cáo Đoàn Đăng Luật, Huỳnh Vĩnh Phát), nói: “Vụ án này có thể được phát sinh theo kiến nghị của bản án số 02. Bản án số 02 khẳng định Navibank bị mất 200 tỷ đồng, và Huyền Như là người chiếm đoạt. Vì thế, tại phiên tòa này, ngay từ đầu HĐXX xác định vấn đề hậu quả không thuộc phạm vi xét xử của vụ án này. Điều này đồng nghĩa không ai có quyền cũng như có nghĩa vụ được hay phải chứng minh hậu quả thiệt hại. Điều này liệu có đúng? Trong hai phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm vụ án Huyền Như, 9/10 bị cáo trong vụ án này không được đến dự với bất kỳ tư cách gì. Tuy nhiên việc kết tội Như lại là tiền đề, là căn cứ để bản án 02 quy kết trách nhiệm và kiến nghị xử lý trách nhiệm hình sự của mình. Vậy cơ sở nào để chứng minh rằng những thiệt hại (nếu có) là có sự tham gia của họ, hậu quả ở đâu, thế nào? Việc mặc định một hậu quả “trời giáng” này một cách đương nhiên và áp đặt nghĩa vụ “im lặng” đối với các bị cáo trong các vấn đề thiệt hại liệu có đúng theo tinh thần của buổi xét xử công khai”?
“Tất nhiên các bị cáo sẽ không tâm phục khẩu phục chấp thuận phán quyết của HĐXX một khi các yêu cầu chính đáng của họ được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng không được tôn trọng. Có phải nguyên tắc suy đoán vô tội theo điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự đã bị lãng quên với họ? Việc áp dụng sai thủ tục tố tụng này thuộc về lỗi của ai? Về việc xác định tội danh của các bị cáo, không thể lấy một số bản án đã xét xử về hành vi tương tự (nếu có) để làm căn cứ cho rằng việc xét xử về tội danh này đối với các bị cáo là đúng – đó là sự suy luận phản khoa học. Bản thân Quốc hội nước ta cũng đã thông qua Bộ luật hình sự 2015 trong đó xóa bỏ điều 165 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999, điều đó chứng tỏ cấp có thẩm quyền đã nhận ra việc lỗi thời, sai trái của điều luật này. Từ việc truy cứu trách nhiệm hình sự sai chủ thể đến việc khiên cưỡng áp đặt họ với tội danh đã lỗi thời và đã bị vô hiệu hoá, liệu rằng các cơ quan tiến hành tố tụng có dự liệu được sự oan sai cho các bị cáo hay không?”, luật sư Tuấn đặt nhiều câu hỏi.