Kể từ ngày 1/7/2021 tới đây là mốc thời gian rất quan trọng, khi mà cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chính thức đưa vào vận hành. Kèm theo đó là nhiều quy định mới quan trọng liên quan đến cư trú cũng có hiệu lực.
Đây được cho là bước đột phá trong công tác quản lý dân cư của Bộ Công an nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân.
Những trường hợp sẽ thu hồi sổ hộ khẩu
Kể từ ngày 1/7/2021, cơ quan công an không cấp mới Sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị cho đến hết ngày 31/12/2022. Các sổ này sẽ được thu lại khi công dân đi làm các thủ tục liên quan đến cư trú.
Cụ thể, khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký tạm trú, điều chỉnh thông tin trong cơ sở dữ liệu về cư trú, tách hộ, xóa đăng ký tạm trú, đăng ký tạm trú, gia hạn tạm trú, xóa đăng ký tạm trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã cấp. Đồng thời, cơ quan này điều chỉnh, cập nhật thông tin trong cơ sở dữ liệu về cư trú và không cấp mới, cấp lại Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú.
Ảnh minh họa
Nhiều thay đổi lớn về đăng ký thường trú, tạm trú
Không chỉ quyết định số phận của Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú, Luật Cư trú có hiệu lực từ ngày 1/7/2021 còn thay đổi rất nhiều vấn đề về đăng ký thường trú, tạm trú, liên quan trực tiếp đến đời sống của mỗi người dân. Trước tiên, Luật này cho thấy điều kiện đăng ký thường trú ở 63 tỉnh, thành là như nhau, không phân biệt thành phố trực thuộc trung ương như trước đây.
Đáng chú ý, từ 1/7/2021, việc nhập hộ khẩu vào các thành phố lớn cũng có phần “cởi mở” hơn so với trước đây, bởi đã xóa bỏ điều kiện “thời gian tạm trú”, chỉ yêu cầu người dân có chỗ ở hợp pháp là có thể làm thủ tục đăng ký thường trú.
Trong thủ tục đăng ký tạm trú, Luật cũng không còn yêu cầu người thuê nhà phải có ý kiến đồng ý của chủ nhà. Đáng chú ý, Luật đã bổ sung quy định về những nơi không được đăng ký thường trú, tạm trú, như: Nhà nằm trên đất lấn chiếm; Nhà đã có quyết định thu hồi đất; Nhà đã có quyết định phá dỡ…
Do đó, từ ngày 1/7/2021, người dân cũng cần lưu ý không thuê nhà, mua nhà ở các địa điểm này, vì không thể làm được thủ tục đăng ký tạm trú, thường trú. Ngoài ra, Luật cũng quy định thêm nhiều trường hợp bị xóa đăng ký thường trú, điển hình nhất là 2 trường hợp: Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên, mà không đăng ký tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh ra nước ngoài; Bán nhà mà không được chủ nhà mới đồng ý cho giữ lại đăng ký thường trú.
09 trường hợp công dân bị xóa đăng ký thường trú
Theo quy định tại Điều 24 Luật Cư trú 2020, xóa đăng ký thường trú đối với các trường hợp:
a) Chết; có quyết định của Tòa án tuyên bố mất tích hoặc đã chết
b) Ra nước ngoài để định cư
c) Đã có quyết định hủy bỏ đăng ký thường trú quy định tại Điều 35 của Luật này
d) Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên mà không đăng ký tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh ra nước ngoài nhưng không phải để định cư hoặc trường hợp đang chấp hành án phạt tù, chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng;
đ) Đã được cơ quan có thẩm quyền cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam;
e) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ mà sau 12 tháng kể từ ngày chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp quy định tại điểm h khoản này;
g) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp nhưng sau đó quyền sở hữu chỗ ở đó đã chuyển cho người khác mà sau 12 tháng kể từ ngày chuyển quyền sở hữu vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp được chủ sở hữu mới đồng ý tiếp tục cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ và cho đăng ký thường trú tại chỗ ở đó hoặc trường hợp quy định tại điểm h khoản này.
h) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ và không được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý cho giữ đăng ký thường trú tại chỗ ở đó; người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở thuộc quyền sở hữu của mình nhưng đã chuyển quyền sở hữu chỗ ở cho người khác và không được chủ sở hữu mới đồng ý cho giữ đăng ký thường trú tại chỗ ở đó;
i) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở đã bị phá dỡ, tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tại phương tiện đã bị xóa đăng ký phương tiện theo quy định của pháp luật.
Để tránh việc bị xóa hộ khẩu trong các trường hợp trên, người dân cần khai báo tạm vắng, đăng ký tạm trú hoặc thỏa thuận với chủ nhà mới để được đồng ý cho giữ hộ khẩu.