Đó là đánh giá của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh tại Hội nghị sơ kết vụ Đông Xuân 2020-2021 và triển khai vụ Hè Thu, Thu Đông, vụ Mùa 2021 các tỉnh Nam bộ và ĐBSCL do Bộ NN-PTNT tổ chức ngày 24/3 tại Cần Thơ.
Quang cảnh hội nghị
Theo Cục Trồng trọt, vụ Đông Xuân 2020-2021, toàn vùng ĐBSCL xuống giống hơn 1,51 triệu ha lúa, giảm khoảng 30 ngàn ha. Năng suất ước đạt 7,5 tấn/ha, sản lượng ước đạt 10.713 ngàn tấn, tăng 144 ngàn tấn. Nguyên nhân giảm diện tích và sản lượng lúa đông xuân tại ĐBSCL do ảnh hưởng của khô hạn và xâm nhập mặn của năm 2020 đã điều chỉnh giảm diện tích lúa khoảng 30 ngán ha.
Trong đó, các tỉnh Tiền Giang giảm 6 ngàn ha, Trà Vinh 2 ngàn ha, Vĩnh Long giảm 5 ngàn do chuyển đổi cây trồng. Tỉnh Kiên Giang giảm 5 ngàn, Sóc Trăng giảm 8 ngàn ha, Đồng Tháp gieo muộn 4 ngàn ha chuyển sang vụ Hè Thu.
Ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết, vụ Đông Xuân năm nay tình hình hạn mặn vẫn còn gay gắt, nhưng với sự chủ động và kích hoạt ứng phó với hạn mặn chúng ta đã làm tốt hơn. Việc điều chỉnh giảm diện tích có chủ động đạt được mục tiêu đề ra. Đặc biệt, vụ đông xuân này năng suất lúa đạt rất cao (7,5 tấn/ha), riêng Cần Thơ đạt tới 7,6 tấn/ha.
Theo đánh giá của Cục Trồng trọt, sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2020-2021 trong bối cảnh tình hình tiêu thụ lúa gạo có nhiều triển vọng, giá lúa bán cao đang có lợi cho nông dân và xuất khẩu gạo ổn định. Công tác triển khai sản xuất Đông Xuân 2020-2021 tại các tỉnh, thành vùng Nam bộ được tiến hành sớm ngay từ tháng 10 năm 2020. Đặc biệt, thời vụ Đông Xuân 2020-2021 đã được triển khai sớm hơn 20-30 ngày với diện tích xuống giống nhiều hơn ở vùng ven biển. Những vùng còn lại phân bố thời gian xuống giống xen kẽ để chia sẻ nguồn nước khi thiếu hụt cho sản xuất.
Thu hoạch lúa Đông Xuân tại ĐBSCL
Một số diện tích phải xuống giống chậm do điều kiện tự nhiên và ảnh hưởng kéo dài của mùa vụ Thu Đông năm 2020 như Bạc Liêu khoảng 31 ngàn ha. Diện tích còn lại xuống giống không trong khung thời vụ khuyến cáo của Cục Trồng trọt và Sở NN-PTNT như ở Bến Tre 161 ha, Trà Vinh 5.000 ha, Kiên Giang khoảng 100 nghìn ha.
Năm nay, cơ cấu giống lúa các tiểu vùng sinh thái ở ĐBSCL phù hợp theo đề xuất của Hiệp hội Lương thực Việt Nam. Trong đó, tỷ lệ sử dụng giống lúa thơm và lúa chất lượng cao tăng, đáp ứng theo yêu cầu thị trường xuất khẩu gạo. Theo đó, nhóm lúa thơm, đặc sản: (Jasmine 85, ST, RVT, Tài Nguyên và Nàng Hoa 9) chiếm tỷ lệ 22,0% tổng diện tích, tăng 0,2 % so với đông xuân 2019 – 2020.
Nhóm lúa chất lượng cao OM5451, Đài Thơm 8, Hương Châu 6, OM18, OM9577, OM9582, OM4900, OM7347, OM6976... chiếm tỷ lệ 55,5 %, tăng 1,0% so với đông xuân 2019 – 2020; Nhóm lúa chất lượng trung bình IR50404, OM576, OC10... chiếm tỷ lệ 9,5%, giảm 1,3% so với đông xuân 2019-2020. Nhóm nếp chiếm tỷ lệ 13,0 %, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.
Theo kế hoạch vụ Hè Thu 2021, toàn vùng ĐBSCL gieo sạ 1,52 triệu ha. Tiến độ xuống giống lúa vụ Hè Thu tính đến ngày 20/3 ước đạt 305 nghìn ha, đạt 20% kế hoạch. Trong đó, tiến độ xuống giống trong tháng 2 sớm hơn cùng kỳ 40 nghìn ha do lúa Đông Xuân gieo sớm thu hoạch xong xuống lại vụ Hè Thu. Vụ Thu Đông 2021 kế hoạch vùng ĐBSCL gieo sạ 725 nghìn ha.
Phát biểu kết luận hội nghị, Thứ Trưởng Lê Quốc Doanh cho rằng: dù năm nay hạn mặn còn diễn biến phức tạp, nhưng vụ Đông Xuân đã thắng lợi toàn diện. Lúa trúng mùa, được giá, quan trọng nhất là lợi nhuận của người nông dân cao, chi phí sản xuất thấp. Tuy nhiên, câu chuyện hạn mặn và biến đổi khí hậu sẽ còn tiếp tục xảy ra ở ĐBSCL. Vì vậy, chúng ta tiếp tục lắng nghe các địa phương để tìm ra giải pháp căn cơ, bài bản hơn nữa trong thời gian tới.
Cơ cấu nhóm giống lúa chính cho vụ Hè Thu 2021 gồm các nhóm giống lúa chủ lực trắng trong, hạt dài: Đài Thơm 8, OM5451, OM6976, OM4900, OM7347, OM4218, Jasmine 85… tỉ lệ 55-60%. Nhóm giống thơm đặc sản: ST5, RVT, Nàng Hoa 9, VD 20… tỉ lệ 15 - 20%. Nhóm giống lúa nếp nếp IR4625, nếp Bè… tỉ lệ dưới 10%. Nhóm giống chất lượng trung bình có thể duy trì tỉ lệ dưới 15% trong cơ cấu giống.