Cụ thể, về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 11/2023 ước đạt 4,79 tỷ USD, tăng 0,3% so với tháng 10/2023 và tăng 13% so với tháng 11/2022. Tất cả các nhóm hàng đều tăng so với tháng 11/2022 như: Nông sản 2,49 tỷ USD, tăng 24,7%; chăn nuôi 41 triệu USD, tăng 9,7%; lâm sản 1,29 tỷ USD, tăng 2,8%; thủy sản 800 triệu USD, tăng 1,4%; đầu vào sản xuất 168 triệu USD, tăng 4,9%.
Nông lâm thủy sản xuất siêu hơn 10 tỷ USD trong 11 tháng. Ảnh minh họa
Tính chung 11 tháng năm 2023, tổng tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 47,84 tỷ USD, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm thuỷ sản đạt 8,24 tỷ USD, giảm 18,9%; lâm sản 13,02 đạt tỷ USD, giảm 17%; đầu vào sản xuất đạt 1,82 tỷ USD, giảm 17,8%.
Riêng nhóm nông sản và chăn nuôi có giá trị tăng, nông sản 24,3 tỷ USD, tăng 17,1% (đóng góp bởi giá trị xuất khẩu nhóm hàng rau quả 5,32 tỷ USD, tăng 74,5%; gạo 4,41 tỷ USD, tăng 36,3%; hạt điều 3,31 tỷ USD, tăng 17,4%, sản phẩm từ ngũ cốc 1,08 tỷ USD, tăng 5,4%) và sản phẩm chăn nuôi 453 triệu USD, tăng 23,5%. Đến nay, có 6 sản phẩm/nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 3 tỷ USD.
Giá xuất khẩu bình quân một số nông sản chính: Gạo 568 USD/tấn, tăng 17,3% chè 1.750 USD/tấn, tăng 8,7%, cà phê 2.570 USD/tấn, tăng 11,9%. Ngược lại, một số mặt hàng giảm giá xuất khẩu: Cao su 1.343 USD/tấn, giảm 14,7%; Hồ tiêu 3.391 USD/tấn, giảm 21,3%; Hạt điều 5.682 USD/tấn, giảm 4,7%; sắn và sản phẩm từ sắn 437 USD/tấn, giảm 0,3%.
Về thị trường xuất khẩu trong 11 tháng năm 2023, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản tới các thị trường thuộc khu vực châu Á đạt 23,61 tỷ USD, tăng 6,8%; châu Mỹ 10,85 tỷ USD, giảm 17,7%; châu Âu 4,85 tỷ USD, giảm 12,5%; châu Phi 999 triệu USD, tăng 21,7%; châu Đại Dương 722 triệu USD, giảm 13,5%. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất; giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 23,2%, tăng 18%; Hoa Kỳ chiếm 20,6%, giảm 17,9% và Nhật Bản chiếm 7,4%, giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước.
Về nhập khẩu nông lâm thủy sản, kim ngạch 11 tháng đạt 37,29 tỷ USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm nông sản 22,72 tỷ USD, giảm 9,4%; sản phẩm chăn nuôi 3,23 tỷ USD, giảm 4,8%; thuỷ sản 2,41 tỷ USD, giảm 3,4%; lâm sản 2,09 tỷ USD, giảm 27,5%; đầu vào sản xuất 6,79 tỷ USD, giảm 8,1%; muối 41,1 triệu USD, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Khu vực châu Á chiếm 28,1% thị phần nhập khẩu của Việt Nam, châu Mỹ chiếm 23,5%, châu Đại Dương chiếm 7%, châu Phi chiếm 4,7% và châu Âu chiếm 4%. Các nước Trung Quốc, Brazil và Hoa Kỳ là 3 thị trường cung cấp các mặt hàng nông, lâm, thủy sản lớn nhất cho Việt Nam trong 11 tháng qua, với thị phần trong tổng giá trị nhập khẩu lần lượt là 8,1%, 8,1% và 7,9%.
Để đạt được chỉ tiêu xuất khẩu nông lâm thủy sản 54 tỉ USD, trong tháng cuối năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục xử lý các vấn đề thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, đặc biệt là thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, liên minh kinh tế Á - Âu...
Đồng thời, tận dụng các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới. Phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.