Giá cà phê tiếp tục giảm
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta tại London đồng loạt giảm mạnh trong các kỳ giao hàng. Cụ thể, kỳ giao tháng 11/2025 giảm mạnh 157 USD/tấn, xuống mức 4475 USD/tấn. Trong khi hợp đồng giao kỳ hạn tháng 7/2026 giảm sâu 202 USD/tấn, xuống mức 4215 USD/tấn.
Tương tự, trên sàn New York, giá cà phê Arabica cũng ghi nhận sự giảm giá đồng loạt trong các kỳ giao hàng. Kỳ giao tháng 12/2025 giảm 14,7 cent/lb, xuống mức 408,0 cent/lb. Hợp đồng giao tháng 9/2026 giảm mạnh 16,9 cent/lb, đạt mức 338,5 cent/lb.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Arabica Brazil biến động trái chiều so với phiên giao dịch trước. Cụ thể: kỳ giao hàng tháng 12/2025 là 492,8 cent/lb, giảm 13,9 cent/lb so với phiên giao dịch trước. Kỳ giao hàng tháng 9/2026 tăng 7,25 cent/lb, lên mức 431,5 cent/lb.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Giá cà phê hôm nay 13/11/2025 tại khu vực Tây Nguyên giao dịch trong khoảng 117.300 - 118.500 đồng/kg, giảm từ 300 - 600 đồng/kg so với hôm qua.
Cụ thể, tại tỉnh Lâm Đồng, khu vực Di Linh, Bảo Lộc và Lâm Hà giảm nhẹ 300 đồng so với hôm qua, giao dịch cùng mức 117.300 đ/kg.
Tại tỉnh Đắk Lắk, khu vực Cư M'gar hôm nay đang thu mua cà phê ở mức 118.500 đ/kg, giảm 500 đồng so với hôm qua. Còn khu vực Ea H'leo và Buôn Hồ giao dịch ở mức giá 118.400 đ/kg.
Ở Đắk Nông (tỉnh Lâm Đồng), thương lái Gia Nghĩa và Đắk R'lấp giảm 500 đồng so với hôm qua, lần lượt giao dịch ở mức 118.000 và 117.900 đ/kg.
Tại tỉnh Gia Lai, khu vực Chư Prông đang giao dịch với giá 118.000 đ/kg, còn Pleiku và La Grai đang ở mức 117.900 đ/kg, giảm 600 đồng so với hôm qua.
Trong 10 tháng đầu năm 2025, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 58 tỉ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Ngành nông nghiệp đang hướng tới mục tiêu kỷ lục 70 tỉ USD cho cả năm. Trong đó, có 7 nhóm hàng đạt xuất siêu trên 1 tỉ USD, khẳng định vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Xuất siêu toàn ngành ước đạt gần 18 tỉ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ. Dẫn đầu là ngành gỗ và sản phẩm gỗ với giá trị xuất siêu 11,3 tỉ USD, tăng 3,3%. Nhờ nhu cầu tăng từ Mỹ và châu Âu, xuất khẩu gỗ Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định và đóng góp lớn cho tổng kim ngạch xuất khẩu.
Cà phê là điểm sáng khi đạt xuất siêu hơn 7 tỉ USD, tăng 64,5%. Khối lượng xuất khẩu đạt 1,3 triệu tấn, tăng 13,5%, với giá trị 7,4 tỉ USD, tăng 62%. Giá xuất khẩu bình quân đạt 5.653,1 USD/tấn, cao hơn 42,5% so với cùng kỳ. Đức, Ý và Tây Ban Nha vẫn là ba thị trường lớn nhất, trong khi Mexico tăng trưởng đột phá gần 35 lần.
Ngoài cà phê và gỗ, nhiều mặt hàng nông sản khác cũng tăng mạnh. Rau quả đạt gần 5 tỉ USD, tăng 15,5%; tôm đạt 3,3 tỉ USD, tăng 16%; hạt tiêu đạt 1,2 tỉ USD, tăng 19%.
Giá hồ tiêu giảm nhẹ
Giá tiêu hôm nay 13/11/2025 trong khoảng 145.000 - 146.000 đồng/kg, giảm từ 500 - 1.000 đồng/kg so với hôm qua.
Cụ thể, giá tiêu Đắk Lắk được thu mua ở mức 146.000 đồng/kg, giá giảm 500 đồng/kg so với hôm qua. Giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) thu mua ở mức 145.000 đồng/kg, không thay đổi so với hôm qua. Giá tiêu Đắk Nông hôm nay ghi nhận ở mức 146.000 đồng/kg, giảm 1.000 đồng/kg so với hôm qua.
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay không thay đổi so với hôm qua. Cụ thể, tại Bà Rịa - Vũng Tàu hiện ở mức 145.000 đồng/kg, giá không đổi so với hôm qua; tại Bình Phước giá tiêu hôm nay ở mức 145.000 đồng/kg.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Cập nhật giá tiêu thế giới từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), kết thúc phiên giao dịch gần nhất, IPC niêm yết giá tiêu đen Lampung của Indonesia đạt 7,103 USD/tấn (giảm 0,14%), giá tiêu trắng Muntok đạt 9,738 USD/tấn (giảm 0,14%).
Giá tiêu đen ASTA 570 của Brazil ở mức 6,100 USD/tấn. Giá tiêu đen ASTA của Malaysia duy trì ổn định ở mức 9,200 USD/tấn; giá tiêu trắng ASTA của nước này đạt 12,300 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam hôm nay ổn định ở mức cao, giao dịch ở 6,400 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 6,600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 9,050 USD/tấn.
Giữa tháng 11, hồ tiêu trong nước bước vào giai đoạn cao điểm giao nhận hàng trước Tết Dương lịch, nhưng lượng hàng nông hộ chào bán khá ít do đã bán bớt từ các đợt tăng giá trước. Ngược lại, nhiều đại lý vẫn thận trọng vì chi phí vốn cao và tỷ giá biến động, khiến giá tiêu dao động quanh 145.000 - 147.000 đồng/kg.
Trong ngắn hạn, giá tiêu dự kiến tiếp tục đi ngang do lượng tồn kho thương mại không dư và nhu cầu giao cuối năm vẫn ổn định. Hai yếu tố cần theo dõi là cước vận tải và tỷ giá USD, bởi chúng ảnh hưởng trực tiếp đến chênh lệch xuất khẩu.
Với nông hộ và đại lý, có thể bán xoay vòng một phần hàng đạt chuẩn ẩm ở vùng giá hiện tại để giữ dòng tiền, phần còn lại chờ tín hiệu mới từ giá quốc tế. Doanh nghiệp xuất khẩu nên chốt sớm một phần hợp đồng giao tháng 12–1 nhằm giảm rủi ro tỷ giá, đồng thời duy trì tồn kho linh hoạt cho giai đoạn sau nếu giá thế giới tiếp tục tăng.





