Theo thông tin từ Vụ Khoa học và Công nghệ - Bộ Công thương, không riêng Việt Nam, mặt hàng thực phẩm ở nhiều quốc gia, kể cả sản xuất tại EU đã bị cảnh báo về hàm lượng hợp chất Ethylene Oxide (EO) vượt quá giới hạn dư lượng cho phép trong thực phẩm theo quy định của EU.
Mì ăn liền Hảo hảo chua cay (Hao Hao Sour-Hot Shrimp Flavour Instant Noodle Dish) và miến ăn liền hương sườn non Good (Good Spare Ribs Flavour Instant Noodle Dish) của Công ty CP ACECOOK Việt Nam vừa bị Cơ quan an toàn thực phẩm của Ireland có thông báo thu hồi. Ảnh: laodong.vn
Đặc tính của hợp chất Ethylene Oxide
EO còn gọi là Oxiran là hợp chất hữu cơ ở dạng khí không màu, được ứng dụng ở nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau. EO không phải là phụ gia thực phẩm hay chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, nhưng có thể được sử dụng để kiểm soát côn trùng, vi sinh vật trong sản phẩm thực phẩm khô (đặc biệt cho gia vị và các loại thảo mộc như ớt bột, tiêu và quế v.v… nhằm diệt khuẩn Salmonella).
Theo hướng dẫn của FAO, khí EO có thể dùng để khử trùng các nhóm thực phẩm với liều lượng: Hạt (có vỏ), chà là và nho khô là 640 g/m³ trong ít nhất 3h ở 20°C; sữa bột: 720 g/m³ trong ít nhất 3h ở 20°C; ngũ cốc, thức ăn chăn nuôi đã xay 800 g/m³ trong ít nhất 6 giờ ở 25°C….
Ở điều kiện bình thường, EO sẽ chuyển thành dạng khí tác dụng đến côn trùng, vi sinh vật qua cơ chế gây độc hô hấp nên được sử dụng với mục đích khử trùng trong sản xuất thực phẩm.
Quy định về dư lượng EO trong thực phẩm
Hiện nay, nhiều quốc gia chưa có quy định về việc sử dụng EO trong nông nghiệp/thực phẩm hay dư lượng của chất này trong thực phẩm. Các tổ chức quốc tế về an toàn thực phẩm cũng chưa ban hành quy định về giới hạn dư lượng EO trong thực phẩm. Một số ít quốc gia và khu vực đã đưa ra quy định nhưng với sự chênh lệch rất lớn.
Tại châu Âu, hợp chất này được xếp vào nhóm 1B về khả năng gây ung thư, gây đột biến, độc tính sinh sản và trong nhóm 3 về độc tính cấp; đã cấm sử dụng trong nông nghiệp và khử trùng trong quá trình sản xuất thực phẩm.
Hoa Kỳ và Canada cho phép sử dụng EO trong khử trùng thảo mộc và rau củ khô. Theo nghiên cứu của Canada trên rau củ khô và vừng hạt, sau khi xử lý sản phẩm với 300 mg/L khí EO trong 6 tiếng và nghỉ 24 tiếng, hàm lượng EO trong sản phẩm là từ không tìm thấy đến 0,255 mg/kg.
Trước năm 2003, Úc và New Zealand cho phép sử dụng EO trong xử lý nông sản và quy định ngưỡng giới hạn dư lượng là 20 mg/kg. Từ năm 2003, EO đã bị loại bỏ khỏi danh sách chất được sử dụng.
Tại Hàn Quốc, tháng 7/2021, có quy định tạm thời về giới hạn dư lượng cho phép đối với hợp chất 2-chloroethanol là dưới 30 mg/kg đối với thực phẩm thông thường, dưới 10 mg/kg đối với thực phẩm dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật thông tin để kiểm soát tiêu chuẩn sản phẩm do trước khi xuất khẩu. Ảnh: Internet
Khuyến nghị với doanh nghiệp Việt Nam
Thời gian qua, đã có một số sản phẩm của Việt Nam bị cảnh báo về dư lượng EO khi xuất khẩu vào thị trường châu Âu. Những sản phẩm này có thể có chuỗi cung ứng gồm nhiều nhánh nhỏ cho các cấu phần khác nhau trước khi được đóng gói trong sản phẩm cuối cùng.
Theo Vụ Khoa học và Công nghệ - Bộ Công thương, ngoài thường xuyên rà soát, đánh giá quy trình sản xuất, doanh nghiệp cần kiểm tra định kỳ các sản phẩm và nguyên liệu, đặc biệt là các cấu phần thuê mua gia công/ sản xuất để đánh giá nguy cơ, kiểm soát nhằm giảm thiểu mức độ rủi ro; đồng thời làm việc với các nhà cung cấp để đảm bảo điều kiện sản xuất, bảo quản và vận chuyển nguyên vật liệu và bao bì không phát sinh mối nguy.
Hiện nay, Việt Nam chưa ban hành quy định cho phép, cấm sử dụng EO trong sản xuất nông nghiệp hay giới hạn dư lượng EO trong thực phẩm. Trong khi đó, mỗi quốc gia, khu vực đơn phương đưa ra tiêu chuẩn kỹ thuật đối với từng loại thực phẩm khác nhau và phụ thuộc rất lớn vào cán cân thương mại giữa các quốc gia/khu vực hoặc chính sách xuất nhập khẩu mỗi nước, điều kiện kỹ thuật, phương thức quản lý, thói quen tiêu dùng, v.v…
Vì vậy trong trường hợp này, mức giới hạn dư lượng EO cho phép đối với cùng một mặt hàng thực phẩm có thể đáp ứng quy định của quốc gia, khu vực này nhưng lại vượt ngưỡng cho phép của quốc gia, khu vực khác. Đây là một yếu tố các doanh nghiệp cần nghiên cứu, thường xuyên cập nhật thông tin để kiểm soát tiêu chuẩn sản phẩm do trước khi xuất khẩu.