Theo ghi nhận trên thị trường giá nông sản trong nước, giá tiêu hôm nay 2/1/2020 đi ngang so với phiên giao dịch hôm qua.
Cụ thể, tại tỉnh Bình Phước, Đắk Lắk, Đắk Nông giá tiêu hôm nay đang được thu mua với mức 41.000 đồng/kg.
Tại tỉnh Vũng Tàu giá tiêu đang dao động ở mức 42.000 đồng/kg.
Tại tỉnh Gia Lai giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 39.500 đồng/kg.
Tại tỉnh Đồng Nai giá tiêu hôm nay ở mức 39.000 đồng/kg, đây là địa phương có giá thấp nhất toàn miền.
Như vậy, giá hồ tiêu toàn miền hôm nay được thu mua trong khoảng từ 39.000 - 42.000 đồng/kg.
Giá tiêu hôm nay 2/1: Mức cao nhất là 42.000 đồng/kg.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, 11 tháng đầu năm 2019 cả nước xuất khẩu 267.309 tấn hạt tiêu, tương đương 674,27 triệu USD, giá trung bình 2.522,4 USD/tấn, tăng 21,3% về lượng nhưng giảm 6,2% về kim ngạch và giảm 22,7% về giá so với cùng kỳ năm 2018.
Xuất khẩu hạt tiêu sang Mỹ đứng đầu về kim ngạch, đạt 48.062 tấn, tương đương 131,66 triệu USD, chiếm 18% trong tổng lượng và chiếm 19,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của cả nước, tăng 17,5% về lượng nhưng kim ngạch giảm 7,8% so với cùng kỳ, giá giảm 21,5%, đạt 2.739,4 USD/tấn.
Xuất khẩu hạt tiêu sang EU chiếm 11,8% trong tổng lượng và chiếm 14,2% trong tổng kim ngạch, đạt 31.671 tấn, tương đương 95,43 triệu USD, tăng 22,8% về lượng nhưng giảm 3,1% về kim ngạch, giá giảm 21,1%, đạt 3.013,3 USD/tấn.
Xuất khẩu sang Ấn Độ mặc dù tăng 1,5% về lượng, nhưng vẫn giảm 21,4% về kim ngạch và giảm 22,6% về giá so với cùng kỳ, đạt 19.232 tấn, tương đương 46,43 triệu USD, giá 2.414,2 USD/tấn, chiếm 7% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của cả nước.
Hạt tiêu xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á nói chung tăng mạnh 43,4% về lượng nhưng chỉ tăng 9% về kim ngạch so với cùng kỳ, đạt 17.810 tấn, tương đương 45,28 triệu USD, chiếm gần 7% trong tổng lượng hạt tiêu xuất khẩu của cả nước.
Trong 11 tháng đầu năm nay, giá xuất khẩu hạt tiêu sang toàn bộ các thị trường đều sụt giảm so với cùng kỳ năm 2018, vì vậy có rất nhiều thị trường tăng mạnh về lượng xuất khẩu nhưng kim ngạch lại giảm ở hầu hết các thị trường, riêng thị trường Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh cả về lượng và kim ngạch, với mức tăng tương ứng 89,4% và 46%, đạt 4.804 tấn, tương đương 10,23 triệu USD. Bên cạnh đó, một số thị trường cũng tăng mạnh về khối lượng như: Đức tăng 40,8% về lượng và tăng 9% về kim ngạch, đạt 10.510 tấn, tương đương 30,33 triệu USD; Thái Lan tăng 34,8% về lượng và tăng 0,7% về kim ngạch, đạt 6.494 tấn, tương đương 19,47 triệu USD; Nga tăng 40,6% về lượng và tăng 10,3% về kim ngạch, đạt 5.427 tấn, tương đương 11,82 triệu USD.
Ngược lại, các thị trường sụt giảm mạnh cả lượng và kim ngạch gồm có: Singapore giảm 54,3% về lượng và giảm 64,2% về kim ngạch, đạt 795 tấn, tương đương 2,03 triệu USD; Australia giảm 20,5% về lượng và giảm 34,9% về kim ngạch, đạt 1.634 tấn, tương đương 5,42 triệu USD; Bỉ giảm 20,5% về lượng và giảm 33,4% về kim ngạch, đạt 356 tấn, tương đương 1,25 triệu USD.