Giá cà phê tăng cao
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London lúc 5 giờ ngày 9/12/2024 đi ngang vầ không có biến động so với phiên giao dịch ngày trước đó và ở mức từ 233 - 258 USD/tấn, dao động 4.779 - 5193 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 1/2025 là 5153 USD/tấn (tăng 258 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 5116 USD/tấn (tăng 243 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 5/2025 là 5065 USD/tấn (tăng 238 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 7/2025 là 5000 USD/tấn (tăng 233 USD/tấn).
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn New York vào sáng ngày 9/12/2024, giá cũng chỉ đi ngang so với phiên giao dịch ngày hôm qua và ở mức từ 13.05 - 16.75 cent/lb, dao động 300.70 - 331.70 cent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 330.25 cent/lb (tăng 16.75 cent/lb); kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 327.60 cent/lb (tăng 16.30 cent/lb); kỳ giao hàng tháng 7/2025 là 321.95 cent/lb (tăng 15.40 cent/lb) và kỳ giao hàng tháng 9/2025 là 314.15 cent/lb (tăng 13.05 cent/lb).
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Arabica Brazil sáng ngày 9/12/2024 sắc xanh chiếm ưu thế so với phiên giao dịch trước đó, giá có tăng nhưng không nhiều, mức tăng từ 20.35 - 22.15 USD/tấn tuỳ các kỳ hạn giao hàng. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 12/2024 là 412.25 USD/tấn (tăng 22.15 USD/tấn); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 409.00 USD/tấn (giảm 0.30 USD/tấn); kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 409.15 USD/tấn (tăng 21.55 USD/tấn) và giao hàng tháng 7/2025 là 401.50 USD/tấn (tăng 20.35 USD/tấn).
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Trong khi đó, giá cà phê trong nước tiếp tục tăng trong ngày đầu tuần. Giá cà phê trong nước được cập nhật lúc 5 giờ ngày 9/12/2024 vẫn giữ mức tăng cao khoảng 3.900 đồng/kg. Hiện giá thu mua cà phê trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 124.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai ở mức 124.000 đồng/kg; giá cà phê thu mua tại tỉnh Đắk Nông là 124.000 đồng/kg và Đắk Lắk ở mức giá cao nhất là 124.000 đồng/kg; giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 123.000 đồng/kg.
Giá cà phê hôm (ngày 8/12) tại tỉnh Đắk Lắk; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức 124.000 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ cũng được thu mua đồng giá mức 124.000 đồng/kg.
Tại khu vực Tây Nguyên, giá cà phê đã giảm mạnh tới 17%, tương đương 22,000 đồng/kg, chỉ trong ba ngày đầu tuần từ 2/12 đến 4/12. Tuy nhiên, ngay sau đó, giá cà phê phục hồi đáng kể, tăng 14 – 15%, tương ứng 15,500 – 16,000 đồng/kg vào những ngày cuối tuần.
Mặc dù phục hồi mạnh mẽ, thị trường vẫn không thể bù đắp được toàn bộ tổn thất từ đầu tuần. Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá cà phê trong nước giảm khoảng 6,000 – 6,500 đồng/kg so với tuần trước, dao động trong khoảng 123,000 – 124,000 đồng/kg.
Tháng 12 là giai đoạn cao điểm thu hoạch cà phê tại Việt Nam, chiếm khoảng 50% sản lượng toàn vụ (từ tháng 10 năm trước đến tháng 1 năm sau). Theo thông lệ, đây là thời điểm giá cà phê thường có xu hướng giảm.
Tuy nhiên, những biến động bất thường trong tuần đầu tiên của tháng 12 đã tạo ra sự khó lường trên thị trường. Với việc nhiều nông dân đã có nguồn tiền tích lũy và không chịu áp lực bán ngay để trang trải, diễn biến giá cả trong thời gian tới hứa hẹn sẽ tiếp tục phức tạp và khó đoán định.
Giá hồ tiêu ổn định
Giá tiêu hôm nay ngày 9/12/2024, giá tiêu trong nước ổn định so với ngày hôm qua 8/12/2024; trung bình ở mức 146.500 đồng/kg. Tính chung trong tuần vừa qua, giá tiêu trong nước đã tăng khoảng 700 – 2.000 đồng/kg so với tuần trước.
Theo đó, giá tiêu Bình Phước, giá tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu cùng ở mức 146.000 đồng/kg; giá tiêu Gia Lai ở mức 146.500 đồng/kg; giá tiêu Đắk Lắk ở mức 147.000 đồng/kg; riêng giá tiêu Đắk Nông cao nhất ở mức 147.200 đồng/kg. Trung bình giá tiêu ngày hôm nay 9/12/2024 ở mức 146.500 đồng/kg.
Câp nhật giá tiêu thế giới từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), kết thúc phiên giao dịch gần nhất, thị trường cơ bản ổn định so với lần cập nhật trước, riêng thị trường Indonesia biến động nhẹ.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Cụ thể, IPC niêm yết giá tiêu đen Lampung của Indonesia đạt 6.703 USD/tấn; tăng 0,28%; giá tiêu trắng Muntok ở mức 9.147 USD/tấn, tăng nhẹ 0,27%.
Giá tiêu đen ASTA 570 của Brazil tăng nhẹ 0,8%, lên mức 6.275 USD/tấn; Giá tiêu đen ASTA của Malaysia ở mức 8.200 USD/tấn, giá tiêu trắng ASTA của nước này đạt 10.400 USD/tấn.
Trong đó, giá tiêu đen Việt Nam ổn định ở mức 6.200 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550 g/l giữ mức 6.500 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 9.300 USD/tấn, không thay đổi.
Nhiều chuyên gia nhận định, hồ tiêu đang trong chu kỳ tăng giá mới, vì vậy, xuất khẩu hạt tiêu dự kiến sẽ còn thuận lợi trong thời gian tới. Tuy nhiên, hồ tiêu Việt Nam cũng đang đối mặt với những thách thức không nhỏ.
Trước hết, theo bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), biến đổi khí hậu khiến cho thời tiết ngày càng khó lường đang là thách thức lớn với nông dân vì làm tăng chi phí đầu tư vào tưới tiêu và phòng ngừa dịch bệnh để tăng năng suất. Biến đổi khí hậu còn góp phần làm trầm trọng thêm tình hình sâu bệnh trên cây hồ tiêu (bệnh chết nhanh, tuyến trùng, bệnh héo lá…).
Sự cạnh tranh mạnh mẽ của các cây trồng khác như sầu riêng, cà phê… cũng đang làm giảm diện tích hồ tiêu, qua đó ảnh hưởng đến sản lượng. Trong khi đó, chi phí nhân công tăng cao và tình trạng thiếu hụt lao động trong mùa cao điểm đang ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu hoạch tiêu.
Ngoài ra, các quy định về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và tiêu chuẩn môi trường tại các thị trường lớn đã tạo áp lực cho ngành hàng hồ tiêu trong việc điều chỉnh phương pháp canh tác và quy trình sản xuất.
Để vượt qua những thách thức ấy, ngành hồ tiêu không thể không đi vào phát triển bền vững. Một trong những giải pháp quan trọng để phát triển bền vững cây hồ tiêu là áp dụng quy trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và cao hơn nữa là áp dụng quy trình quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM).