Giá cà phê tiếp tục tăng
Trên sàn giao dịch London, giá cà phê trực tuyến robusta hợp đồng giao kỳ hạn tháng 11/2025 đóng cửa ở mức 4182 USD/tấn, giảm 0,45% (19 USD/tấn) so với hôm qua. Hợp đồng giao kỳ hạn tháng 1/2026 giảm 0,05% (2 USD/tấn), đạt 4180 USD/tấn.
Trên sàn giao dịch New York, giá cà phê arabica giao kỳ hạn tháng 12/2025 giảm 1,19% (4,55 US cent/pound) so với hôm qua, đạt 373,3 US cent/pound. Hợp đồng giao tháng 3/2026 giảm 0,91% (3,3 US cent/pound), xuống mức 355,6 US cent/pound.
Giá cà phê trong nước hôm nay 30/9/2025 tại khu vực Tây Nguyên tiếp tục tăng nhẹ so với hôm qua, dao động trong khoảng 115.300 - 116.700 đồng/kg.
Theo đó, thương lái tại vùng Đắk Nông cũ đang thu mua cà phê ở mức cao nhất là 116,700 đồng/kg, tiếp tục tăng nhẹ 1.000 đồng/kg so với hôm qua.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Tương tự, giá cà phê tại tỉnh Đắk Lắk có mức giá 116.500 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg so với hôm qua.
Giá cà phê tại tỉnh Gia Lai tăng 1.000 đồng/kg so với hôm qua và được giao dịch ở mốc 116.300 đồng/kg.
Còn tại tỉnh Lâm Đồng, giá cà phê tăng 1.000 đồng/kg so với hôm qua và ở mức giá 115.300 đồng/kg.
Giá cà phê đang có xu hướng tăng giá khi tồn kho tại các sàn quốc tế giảm mạnh. Bên cạnh đó, nguồn cung từ Brazil bị ảnh hưởng bởi thuế quan và rủi ro thời tiết, khiến giá cà phê tiếp tục neo ở mức cao.
Trong niên vụ 2025-2026, Mỹ áp thuế nhập khẩu lên cà phê từ nhiều quốc gia: Brazil 50%, Việt Nam 20%, Indonesia 19%... Chính sách này khiến giá cà phê tại Mỹ tăng mạnh. Nhiều doanh nghiệp và nghị sĩ kêu gọi giảm thuế về 0% bởi 90% lượng cà phê Mỹ tiêu thụ phải nhập khẩu.
Từ cuối năm 2025, Liên minh châu Âu sẽ áp dụng Đạo luật chống phá rừng (EUDR). Quy định này có thể khiến nhiều lô hàng cà phê không đáp ứng yêu cầu bị từ chối nhập khẩu, tạo thêm áp lực cho chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các dự báo hiện chưa thống nhất, song nhìn chung thị trường cà phê đang cân bằng về cung và cầu. Giá dự kiến tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian tới.
Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp lo ngại việc hoàn thuế GTGT bị chậm hoặc treo lại. Nếu tình trạng kéo dài, các đơn vị sẽ thiếu vốn để thu mua cà phê trong vụ thu hoạch, với giá trị có thể lên đến 2,5 tỉ USD, tương đương một phần ba sản lượng toàn vụ.
Giá hồ tiêu tiếp tục đi ngang
Giá tiêu hôm nay 30/9/2025 được cập nhật vào lúc 5 giờ cho thấy thị trường trong nước bình ổn. Giá tiêu được thương lái thu mua tại các khu vực trọng điểm đi ngang so với ngày hôm qua. Hiện giá thu mua trung bình tại các địa bàn trọng điểm là 149.000 đồng/kg.
Cụ thể, Gia Lai và Đồng Nai có giá tiêu hôm nay là 148.000 đồng/kg, không thay đổi so với ngày hôm qua.
Giá tiêu tại TP Hồ Chí Minh đi ngang so với ngày hôm qua khi tiêu được thương lái thu mua với giá 150.000 đồng/kg.
Trong khi đó, tại Lâm Đồng, giá tiêu trên thị trường được thương lái thu mua ở mức 149.000 đồng/kg, không biến động so với ngày hôm trước.
Giá tiêu tại Đắk Lắk cũng không biến động, được ghi nhận ở mức 150.000 đồng/kg.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Cập nhật giá tiêu thế giới từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) lúc 5 giờ sáng 30/9/2025, thị trường hồ tiêu xuất khẩu hôm nay tiếp tục ghi nhận sự trầm lắng của thị trường. Giá tiêu không có sự thay đổi so với ngày hôm trước.
Cụ thể, giá tiêu đen Lampung của Indonesia không thay đổi so với hôm qua ở mức 6945 USD/tấn. Ngoài ra, giá tiêu trắng Muntok không thay đổi so với ngày hôm qua đạt 9841 USD/tấn.
Giá tiêu đen ASTA của Brazil không thay đổi so với hôm qua ở mức 6500 USD/tấn.
Giá tiêu đen ASTA của Malaysia không thay đổi so với hôm qua hiện ở mức 9600 USD/tấn. Ngoài ra, giá tiêu trắng ASTA của nước này cũng không thay đổi so với hôm qua đạt 13000 USD/tấn.
Giá tiêu các loại của Việt Nam không thay đổi so với ngày hôm qua. Trong đó, giá tiêu đen của Việt Nam loại 500 gr/l đạt 6600 USD/tấn; loại 550 gr/l đạt 6800 USD/tấn.
Ngoài ra, giá tiêu trắng của Việt Nam không thay đổi so với hôm qua đạt 9250 USD/tấn.
Trong các phiên gần đây, giá hồ tiêu trong nước chủ yếu dao động trong khoảng 149.000 – 151.500 đồng/kg, với nhiều lô chất lượng cao có thể chạm 152.000 – 153.000 đồng/kg.
Một vài phiên ghi nhận hiện tượng “giằng co” nhẹ, khi người bán giữ hàng chờ giá cao hơn còn người mua cầm chừng vì lo ngại chi phí logistics hoặc rủi ro đơn hàng xuất khẩu.
Xuất khẩu tiếp tục là lực kéo giá: các doanh nghiệp vẫn sử dụng dòng vốn để gom hàng, kỳ vọng đơn hàng mới vào cuối quý 3 – đầu quý 4.
Nhưng cũng cần lưu ý: nếu nguồn cung vùng trồng trọng điểm như Gia Lai, Đắk Lắk, Bình Phước… được chào bán ồ ạt, áp lực “xả hàng” có thể gây áp lực nhỏ làm giá co hẹp hoặc giảm nhẹ.