Thành công này giúp chủ động nguồn vaccine phòng cúm A (H5N1), nâng cao chất lượng phòng bệnh cúm gia cầm, góp phần mang lại hiệu quả cho nghề chăn nuôi gia cầm.
Từ năm 2006 đến 2011, Việt Nam đã sản xuất thành công vaccine cúm gia cầm H5N1 (tên thương mại là Navet-Vifluvac) vô hoạt nhũ dầu và đã được Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho phép sản xuất, sử dụng. Tuy nhiên, đặc điểm vi-rút cúm A (H5N1) dễ biến đổi tạo thành các biến chủng vi-rút mới và thực tế đã có những chủng vi-rút cúm mới xuất hiện, lưu hành trên đàn gia cầm nuôi ở Việt Nam. Do đó, dù trong nước đã sản xuất được vaccine cúm Navet-Vifluvac và thị trường có vaccine nhập khẩu, nhưng hiệu quả phòng bệnh vẫn còn hạn chế, thậm chí không hiệu quả đối với các chủng vi-rút biến đổi. Việc nghiên cứu một vaccine mới có khả năng phòng, chống được các biến chủng của vi-rút cúm gia cầm type A(H5N1) là yêu cầu cấp thiết.
Sản xuất vaccine phòng cúm A(H5N1) Navet-Fluvac 2.
Trước thực tế đó, Công ty NAVETCO đã mạnh dạn đề xuất với Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện dự án khoa học công nghệ “Công nghệ sản xuất vaccine cúm A(H5N1) cho gia cầm”. Với đội ngũ cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất vaccine và những trang thiết bị chuyên dùng hiện có, trên cơ sở hợp tác phối hợp nghiên cứu với các tổ chức nghiên cứu trong nước và ngoài nước, Công ty NAVETCO đã được Bộ Khoa học và Công nghệ giao chủ trì thực hiện nghiên cứu sản xuất vaccine cúm gia cầm H5N1 phòng, chống được các vi-rút cúm đã biến đổi, bảo đảm cung cấp một phần vaccine, tiến tới sản xuất thay thế vaccine nhập khẩu thuộc chương trình phát triển sản phẩm quốc gia. TS Trần Xuân Hạnh, Phó Tổng giám đốc Công ty NAVETCO cho biết, việc sản xuất một vaccine mới do công ty đề xuất cần có phổ hoạt động rộng hơn, bằng cách bổ sung chủng vi-rút có đặc tính tương đồng kháng nguyên với các chủng đang lưu hành. Từ tháng 12/2017 đến 12/2019, nhóm nghiên cứu đã áp dụng và làm chủ công nghệ nuôi cấy vi-rút cúm trên phôi trứng gà và công nghệ tạo nhũ để sản xuất vaccine cúm gia cầm vô hoạt với chất bổ trợ miễn dịch nhũ dầu. Trên cơ sở đó, vaccine Navet-Fluvac 2 đã được tạo ra, có hiệu quả trong việc phòng các chủng vi-rút cúm thuộc các biến chủng clade 1, 1.1; 2.3.2.1a,b,c và có bảo hộ chéo với cúm A(H5N6) cho gà, vịt, ngan, chim cút và vịt trời, có hiệu quả ít nhất sáu tháng.
TS Trần Xuân Hạnh chia sẻ, đây là vaccine phòng cúm đầu tiên của Việt Nam sản xuất bằng phương pháp dùng hai chủng vaccine: NIBRG-14 và A/Hubei/1/2010 (H5N1)-PR8-IDCDC-RG30. Do phối hợp hai chủng vi-rút nên vaccine có phổ tác dụng rộng đối với các biến chủng khác nhau của vi-rút cúm H5N1 và vi-rút cúm A (H5N6). Việc làm chủ công nghệ tạo nhũ hiện đại, ở quy mô công nghiệp, không những bảo đảm thu được chất lượng nhũ bền vững, mà còn giúp cho nhà sản xuất đủ khả năng cung cấp vaccine cho thị trường.
Thành công này giúp chủ động nguồn vaccine phòng cúm A (H5N1), nâng cao chất lượng phòng bệnh cúm gia cầm.
Hiện, vaccine Navet-Fluvac 2 đã được Cục Thú y cấp phép sản xuất, lưu hành. Đến nay, công ty đã tổ chức sản xuất, cung ứng đạt gần 100 triệu liều. Với quy mô hiện tại, có thể sản xuất khoảng 200 đến 250 triệu liều/năm. Việc sản xuất thành công vaccine đã giúp giảm thiệt hại cho người chăn nuôi gia cầm do bệnh cúm gia cầm gây ra. Bên cạnh đó, tạo tính chủ động hơn cho việc cung ứng vaccine trong nước mà không phải nhập khẩu vaccine. Do sản xuất trong nước nên cơ hội người dân tiếp cận được với vaccine sẽ dễ hơn, số người chăn nuôi sử dụng vaccine sẽ nhiều hơn, góp phần phòng bệnh hiệu quả hơn.
Lãnh đạo Công ty NAVETCO cho rằng, kết quả này có được nhờ công ty hội tụ đầy đủ các yếu tố để triển khai nhiệm vụ nhanh gọn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Khác với các đơn vị nghiên cứu hay doanh nghiệp khác, Công ty NAVETCO là tổ hợp thống nhất giữa nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh, trong đó, công ty có một trung tâm nghiên cứu riêng. Nhờ vậy, khi được Bộ Khoa học và Công nghệ tin tưởng giao nhiệm vụ, công ty ngay lập tức huy động toàn bộ cán bộ nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật, cùng với việc tận dụng mọi trang thiết bị của nghiên cứu và sản xuất của công ty vào thực hiện dự án. Nếu như khâu triển khai kết quả nghiên cứu ra sản xuất luôn là cái khó của nhiều đơn vị thì ở Công ty NAVETCO thuận lợi, bởi cả hai đơn vị đều thuộc công ty, cán bộ sản xuất tham gia nghiên cứu nên không mất thời gian để đàm phán quyền lợi và chuyển giao công nghệ.
Dự án thành công đã chứng minh được khả năng và năng lực về mặt khoa học của các công ty sản xuất vaccine trong nước thông qua việc áp dụng thành công hai công nghệ là sản xuất vaccine dùng trứng gà có phôi và công nghệ tạo nhũ trong sản xuất vaccine nhị giá cúm gia cầm H5N1. Việc làm chủ được công nghệ sản xuất vaccine, thành công trong kỹ thuật tạo nhũ là cơ sở khoa học để áp dụng nghiên cứu các loại vaccine nhũ dầu khác của ngành thú y.