Các yếu tố nguy cơ của ung thư vòm họng
Bạn cần thận trong với bệnh ung thư vòm hong. Nguồn ảnh: Internet
Mặc dù nguyên nhân của bệnh này chưa được xác định rõ ràng nhưng một số yếu tố sau đây được coi là có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư vòm họng:
Thường xuyên tiếp xúc với khói, bụi, môi trường kém thông khí, hóa chất (đặc biệt là các hydrocacbon thơm), ăn nhiều cá muối và các thức ăn lên men (dưa, cà, mắm)…
Hút thuốc.
Uống nhiều bia rượu.
Do di truyền.
Yếu tố địa lý: Ung thư vòm thường gặp với tỷ lệ cao ở các nước Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc nhưng ít gặp ở các nước Âu Mỹ. Việt Nam nằm trong vùng dịch tễ của ung thư vòm.
Nhiễm virus EBV.
Dấu hiệu ung thư vòm họng
PGS Nguyễn Thị Hoài An – Giám đốc Bệnh viện An Việt, Hà Nội cho biết ung thư vòm họng là bệnh lý ác tính, một trong 10 loại ung thư thường gặp nhất tại Việt Nam.
Người dân thường bỏ qua các triệu chứng của bệnh, đôi khi nhầm với các bệnh lý cảm cúm thông thường. Các triệu chứng của bệnh hầu hết là các triệu chứng “mượn” của các cơ quan lân cận và thường biểu hiện ở một bên:
Biểu hiện ở mũi: Ngạt tắc mũi, chảy mủ mũi, chảy máu mũi, nói giọng mũi.
Biểu hiện ở tai: U làm tắc vòi tai gây viêm tai giữa, biểu hiện đau tai, ù tai, chóng mặt, nghe kém, có thể chảy mủ tai.
Biểu hiện ở mắt: Khu u lan rộng vào nền sọ, gây liệt các dây thần kinh chi phối hoạt động mắt biểu hiện lác mắt, lồi mắt, sụp mi, giảm thị lực…
Hạch cổ: Là dấu hiệu thường gặp, gặp ở 60-90% các trường hợp.
Ngoài ra còn có các biểu hiện toàn thân khác thường gặp như đau đầu nhiều, gầy sút cân trong thời gian ngắn, sốt kéo dài không rõ nguyên nhân… cũng cần phải được lưu ý.
Tỷ lệ điều trị bệnh ung thư vòm họng phụ thuộc vào thời gian phát hiện bệnh sớm hay muộn. Theo PGS An, tỷ lệ người Việt Nam mắc ung thư vòm họng đứng top đầu của thế giới. Trước đây, khi chưa có thiết bị nội soi hiện đại, việc tầm soát ung thư này thường bị bỏ sót. Tuy nhiên, khi thiết bị nội soi được phổ biến trong toàn ngành tai-mũi-họng, tỷ lệ phát hiện sớm ung thư vòm họng cũng tăng lên.
Ở những giai đoạn sau, tỷ lệ này giảm đi và nếu chỉ xạ trị đơn thuần thì khả năng tái phát là rất cao, tỷ lệ sống thêm 5 năm chỉ còn từ 10 – 40%. Thậm chí, có những bệnh nhân khi đến BV đã ở giai đoạn 3, 4, thời gian sống bị rút ngắn chỉ còn 2-3 năm.
Ðiều trị ung thư vòm họng
PGS Nguyễn Thị Hoài An. Nguồn ảnh: BVAV
Về điều trị ung thư vòm họng, PGS Hoài An cho biết, sau khi được chẩn đoán, các bác sĩ sẽ xác định giai đoạn của bệnh, căn cứ vào giai đoạn bệnh cùng một vài yếu tố khác để quyết định kế hoạch điều trị và tiên lượng bệnh. Các biện pháp điều trị chính hiện nay gồm có:
Tia xạ: Với ung thư vòm hiện nay, xạ trị là phương pháp điều trị quan trọng nhất, chiếu tia cả khối u và hạch cổ nếu có. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các bác sĩ có thể xác định chính xác trường chiếu tia dựa vào các hình ảnh không gian 3 chiều nhằm tăng tối đa tác dụng của tia xạ trên khối u đồng thời hạn chế làm tổn thương mô lành.
Hóa chất: Trước đây hóa chất chỉ được sử dụng khi ung thư vòm có di căn xa hoặc khi điều trị tia xạ thất bại, xu hướng mới hiện nay là điều trị tia xạ kết hợp với hóa chất ngay từ đầu để làm tăng hiệu quả điều trị triệt để khối u.
Phẫu thuật: Do vòm họng nằm ở vị trí giải phẫu chật hẹp và sâu nên trước đây phẫu thuật không có vai trò quan trọng trong điều trị triệt để mà chỉ có vai trò trong việc lấy bệnh phẩm để chẩn đoán bệnh.
Ngày nay với sự tiến bộ của phẫu thuật nền sọ, kết hợp với nội soi đã mở ra cơ hội chữa khỏi bệnh cho những bệnh nhân ung thư vòm thể kém đáp ứng với tia xạ như thể sừng hóa hoặc tái phát. Ngoài ra phẫu thuật còn có thể loại bỏ các hạch di căn ở vùng cổ giai đoạn còn khu trú.
Ngoài các phương pháp điều trị cơ bản như trên, các nhà khoa học hiện nay đang nỗ lực nghiên cứu các biện pháp điều trị mới dựa trên sinh học phân tử, công nghệ gen, miễn dịch học… và bước đầu đã cho thấy hiệu quả điều trị tích cực.
Nếu được phát hiện và điều trị ở giai đoạn sớm tỷ lệ sống trên 5 năm sau điều trị có thể lên tới trên 70%, 80%, nhiều trường hợp khỏi hẳn.
Chính vì thế, việc tầm soát phát hiện sớm ung thư vòm họng là rất quan trọng. PGS An khuyến cáo khi có các triệu chứng nghi ngờ trên kéo dài khoảng 1 tuần người bệnh nên tới các cơ sở y tế kiểm tra.