Theo Bộ Y tế từng khuyến cáo trước đây, bệnh bạch hầu lưu hành khá phổ biến ở hầu hết các địa phương trên cả nước. Từ khi vắc-xin phòng bạch hầu được đưa vào Chương trình Tiêm chủng Mở rộng, bệnh đã được khống chế và chỉ ghi nhận một vài trường hợp lẻ tẻ do không tiêm vắc-xin phòng bệnh, thường xảy ra ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, Việt Nam lại ghi nhận liên tiếp các trường hợp mắc bệnh bạch hầu.
Ngành y tế khám sàng lọc tại khu vực phát hiện ổ dịch bạch hầu ở Đắk Nông.
Tính tới 24/6, tại Đắk Nông đã có 12 ca dương tính với vi khuẩn gây bệnh bạch hầu, tập trung ở hai huyện Krông Nô và Đắk Glong. Một ca tử vong đã được ghi nhận tại huyện Đắk Glong. Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Đắk Nông đã cách ly hơn 1.200 người có tiếp xúc và liên quan tới các bệnh nhân.
Bạch hầu là một căn bệnh truyền nhiễm hiếm gặp nhưng ở thời điểm hiện tại, Bộ Y tế cho biết bệnh vẫn chưa được loại trừ ở nước ta, đặc biệt là những người chưa tiêm vắc-xin phòng bệnh và tiếp xúc với mầm bệnh.
Dưới đây là tất tần tật những điều mà bạn cần nắm rõ về bệnh bạch hầu để nâng cao tinh thần phòng chống bệnh trong thời gian này!
Bệnh truyền nhiễm cấp tính
Được phát hiện từ thế kỷ V trước Công nguyên, đến nay, bạch hầu vẫn là căn bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và có mức độ lây nhiễm cao. Bệnh bạch hầu (Diphtheria) là nguyên nhân chính gây bệnh và tử vong cho hàng triệu trẻ em trên thế giới. Năm 1921, Mỹ ghi nhận có 206.000 trường hợp mắc bạch hầu, dẫn đến15.520 ca tử vong, tỷ lệ cao nhất trong số các trường hợp tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi.
Tây Ban Nha gọi căn bệnh này là "El garatillo" (kẻ treo cổ).
Theo Historyofvaccines, tỷ lệ tử vong của bệnh bạch hầu dao động khoảng 20% đối với những trẻ em dưới 5 tuổi và người trên 40 tuổi, 5-10% đối với những người từ 5-40 tuổi. Bạch hầu cũng là nguyên nhân gây tử vong thứ 3 cho trẻ em ở Anh và xứ Wales vào những năm 1930. Thế kỷ XVII, Tây Ban Nha gọi căn bệnh này là "El garatillo" (kẻ treo cổ) vì ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe cộng đồng.
Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu (tên khoa học là Corynebacterium diphtheriae) gây ra. Bệnh thường đặc trưng bởi tổn thương nguyên phát, thường là phần trên đường hô hấp và độc tố lây lan ra khắp cơ thể.
Những người tiếp xúc với mầm bệnh đều có thể bị lây nhiễm. Thông thường trẻ em 1-10 tuổi dễ mắc bệnh nhất do không còn kháng thể từ mẹ truyền sang.
Bạch hầu do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra, chúng nhân lên trên bề mặt của họng hầu. Vi khuẩn này lẫy nhiễm qua 2 đường chính:
Giọt bắn trong không khí: Tương tự Covid-19, khi người bệnh hắt hơi hoặc ho sẽ tiết ra giọt bắn mang theo vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae, những người ở gần có thể hít phải và nhiễm bệnh. Mức độ lây lan trong những nơi đông đúc càng cao.
Các vật dụng cá nhân hoặc gia đình người mắc bạch hầu: Những người thân hoặc nhân viên y tế khi chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân bạch hầu có nguy cơ lây nhiễm vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae qua các vật dụng của người bệnh như khăn tay, khăn giấy… Chạm vào vết thương hở, bị nhiễm trùng của người bệnh cũng có khả năng lây nhiễm bạch hầu.
Những người lành bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu ngay cả khi không có biểu hiện bệnh có thể lây nhiễm cho người khác nếu họ chưa tiêm phòng vaccine bệnh này.
Ban đầu người nhiễm bệnh sẽ bị đau họng, ho và sốt kèm ớn lạnh.
Bệnh có thể biểu hiện từ nhẹ đến nặng với lớp giả mạc màu trắng ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi, có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục, trường hợp nặng có thể gây biến chứng và tử vong.
Có khá nhiều triệu chứng xuất hiện trong 2 - 5 ngày sau khi phơi nhiễm. Ban đầu người nhiễm bệnh sẽ bị đau họng, ho và sốt kèm ớn lạnh. Các triệu chứng này tăng dần từ nhẹ đến nặng hơn. Chính vì triệu chứng khá phổ biến nên cha mẹ dễ nhầm tưởng trẻ chỉ đơn giản đang bị cảm lạnh, chứ không phải đang phơi nhiễm với vi khuẩn bạch hầu.
Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, bệnh bạch hầu sẽ có các biểu hiện khác nhau:
Bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy mũi ra chất mủ nhầy đôi khi có lẫn máu. Khi khám, có thể thấy màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh này thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bạch hầu họng và amidan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2 - 3 ngày sẽ xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amidan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Thường thể bệnh này, các độc tố ngấm vào máu nhiều và có thể gây tình trạng nhiễm độc toàn thân. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng, bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Nếu không được điều trị tích cực, bệnh nhân có thể tử vong trong vòng 6 - 10 ngày.
Bạch hầu thanh quản: Đây là thể bệnh tiến triển nhanh và rất nguy hiểm. Bệnh nhân thường biểu hiện bằng dấu hiệu sốt, khàn giọng, ho ông ổng. Khi khám, bác sĩ có thể thấy các giả mạc tại ngay thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được xử trí kịp thời, các giả mạc này có thể gây tắc đường thở làm bệnh nhân suy hô hấp và có nguy cơ tử vong nhanh chóng.
Bạch hầu các vị trí khác: Thường rất hiếm gặp và nhẹ, vi khuẩn bạch hầu có thể gây loét ở da, niêm mạc như niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai.
Biến chứng từ "kẻ treo cổ"
Triệu chứng ban đầu của bệnh bạch hầu là sốt, viêm họng, ho, viêm mũi, đau khi nuốt, xuất hiện màng giả màu trắng ở vùng hầu họng.
Triệu chứng ban đầu của bệnh bạch hầu là sốt, viêm họng, ho, viêm mũi, đau khi nuốt, xuất hiện màng giả màu trắng ở vùng hầu họng. Cổ họng và amidan bị màng dày, xám bao phủ.
Nếu không được điều trị, bạch hầu có thể dẫn đến:
Cản trở hô hấp: Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu có thể tạo ra độc tố. Độc tố này gây tổn thương mô ở vùng bị nhiễm trùng ngay lập tức - thường là mũi và cổ họng. Tại vị trí đó, nhiễm trùng làm hình thành một màng cứng màu xám bao gồm các tế bào chết, vi khuẩn và các chất khác. Màng này có thể cản trở hô hấp, gây khó thở cho người bệnh
Đau tim, viêm cơ tim: Độc tố bạch hầu có thể nhiễm vào máu và làm hỏng các mô khác trong cơ thể, gây viêm cơ tim, tổn thương cơ quan này. Tổn thương nặng có thể gây suy tim sung huyết và đột tử.
Tổn thương thần kinh: Dây thần kinh đến cổ họng là cơ quan thần kinh đầu tiên bị các vi khuẩn bạch hầu tấn công, gây khó nuốt. Dây thần kinh đến cánh tay và chân cũng có thể bị viêm, gây yếu cơ.
Tiêm phòng để tránh mắc bạch hầu
Tiêm chủng tiêm vaccine để phòng bệnh bạch hầu.
Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết bệnh bạch hầu lây truyền dễ dàng qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng khi ho, hắt hơi, đặc biệt trong khu vực dân cư đông đúc hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không bảo đảm. Vì thế, cần cách ly y tế để hạn chế thấp nhất nguy cơ lây lan dịch bệnh.
Trước đây, bệnh lưu hành khá phổ biến ở hầu hết địa phương trên cả nước. Sau khi việc tiêm phòng vaccine phòng bạch hầu được thực hiện, bệnh đã được khống chế và chỉ ghi nhận một vài trường hợp ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Hiện, bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở Việt Nam. Do đó, người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vaccine phòng bệnh.
Để chủ động phòng chống bệnh bạch hầu, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo người dân cần đưa trẻ đi tiêm chủng tiêm vaccine phối hợp phòng bệnh bạch hầu: Quinvaxem hoặc DTP, Td đầy đủ, đúng lịch.
Người dân cần thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh; bảo đảm nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
Ở những nơi có tiền sử phát hiện ổ dịch bạch hầu cần tăng cường giám sát, phát hiện các trường hợp viêm họng giả mạc.
Khi có dấu hiệu mắc bệnh, người đó phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời