Ông Lê Văn Dư
Theo đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án TAND cấp cao; quyết định hủy bản án sơ thẩm số 507/2019/DS-ST ngày 7/11/2019 của TAND quận Gò Vấp, và bản án phúc thẩm số 621/2020/DS-PT ngày 1/7/2020 của TAND TP Hồ Chí Minh do kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Đồng thời, quyết định cũng giao hồ sơ vụ án cho TAND quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Nếu không có chứng cứ nào khác để xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì phải áp dụng điều 129 Bộ luật dân sự 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng này giữa nguyên đơn Phan Quý với các bị đơn Khâu Văn Sĩ, Lê Sĩ Thắng, và Lê Văn Dư.
Theo hồ sơ vụ án, năm 1999, ông Huỳnh Hữu Lời (1958), ngụ tại 145 Điện Biên Phủ, phường Đa Kao, quận 1, TP Hồ Chí Minh chuyển nhượng bằng hình thức viết giấy tay 3.500m² đất thuộc thửa 504, tờ bản đồ số 40, phường 15, quận Gò Vấp cho vợ chồng ông Phan Quý (1953) và bà Lê Thị Bích Thủy (1957), cùng ngụ tại 42 Hà Huy Giáp, phường Thạnh Lộc, quận 12, TP Hồ Chí Minh.
Ngày 3/2/2002, vợ chồng ông Quý bán lại diện tích 500m² đất cũng bằng “Hợp đồng chuyển nhượng viết tay – không có công chứng” cho ông Khâu Văn Sĩ (1959), ngụ tại 416/43/5 Dương Quảng Hàm, phường 5, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh. Đến năm 2005, ông Quý được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích 3.500m².
Ngày 18/4/2009, vợ chồng ông Quý tiếp tục bán bằng “Hợp đồng chuyển nhượng viết tay – không có công chứng” cho ông Lê Văn Dư (1978), ngụ tại 2/24D, đường số 2 – Lê Đức Thọ, phường 15, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh; và ông Lê Sĩ Thắng (1984), ngụ tại 2/24D1, đường số 2 – Lê Đức Thọ, phường 15, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh mỗi người 87m² đất với lời hứa sẽ thực hiện việc tách thửa và đăng bộ phần diện tích đã bán. Lời hứa này dù được các ông Dư và Thắng nhắc nhiều lần vẫn chưa được vợ chồng ông Quý, bà Thủy thực hiện.
Khoảnh khắc vỡ òa niềm vui của ông Lê Văn Dư sau khi có kết quả từ phiên họp giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
Sau khi nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Quý, bà Thủy, ông Dư và ông Thắng cùng chuyển nhượng lại đất cho ông Sĩ (tổng cộng 674m²). Đến năm 2015 thì ông Sĩ bán lại toàn bộ 674m² đất cho ông Dư.
Sau khi nhận chuyển nhượng lại toàn bộ 674m² đất, gia đình các ông Dư và Thắng đã chuyển về đây sinh sống ổn định, không tranh chấp với ai, tiến hành kê khai tạm trú tạm vắng và được chính quyền địa phương cấp số nhà để quản lý.
Tháng 6/2017, ông Quý khởi kiện ông Dư, ông Thắng, ông Sĩ ra TAND quận Gò Vấp, yêu cầu tòa tuyên các “Hợp đồng chuyển nhượng đất viết tay – không có công chứng” giữa ông Quý với các ông Dư, Thắng, Sĩ trước đây là vô hiệu.
Bản án sơ thẩm số 507/2019/DS-ST ngày 7/11/2019 của TAND quận Gò Vấp đã tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Quý với ông Sĩ, công nhận hai hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Quý với ông Dư, ông Thắng. Không đồng ý, các bên kháng cáo. Viện trưởng Viện KSND quận Gò Vấp cũng có kháng nghị bản án sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm số 621/2020/DS-PT ngày 01/7/2020 của TAND TP Hồ Chí Minh đã tuyên không công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quý với các ông Dư, Sĩ, Thắng; không công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Sĩ, Thắng với ông Dư. Đồng thời, không công nhận quyền sử dụng đất của ông Lê Văn Dư đối với 674m².Tòa buộc các bị đơn trả 674m² đất cho nguyên đơn và nhận lại số tiền đã trả cho nguyên đơn trước đây kèm số tiền lãi với lãi suất 9%/năm.
Sau khi tòa tuyên án, một đương sự trong vụ án đã lao ra lan can định nhảy lầu tự tử nhưng được các nhà báo kịp thời giữ lại.
Ngay sau khi các bị đơn có đơn đề nghị, ngày 15/7/2020 Chánh án TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh Trần Văn Châu có Quyết định Kháng nghị Giám đốc thẩm số 115/2020/KN-DS. Kháng nghị cho rằng bản án phúc thẩm của TAND TP Hồ Chí Minh và bản án sơ thẩm của TAND quận Gò Vấp có nhiều vi phạm về nội dung và thủ tục tố tụng như: Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định sai quan hệ tranh chấp trong vụ án; xác định chưa đúng về thời hiệu khởi kiện; về nội dung, thời điểm khởi kiện nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định, khi các bên đã thanh toán xong thì hợp đồng này không bị xem là vô hiệu; Hiện nay thực tế 3 phần đất (tổng diện tích 674m²) đều được chuyển nhượng cho ông Lê Văn Dư, đảm bảo điều kiện tách thửa theo quyết định 190 của UBND TP (đất nông nghiệp phải từ 500m² trở lên mới được tách thửa). Do không vi phạm về điều kiện tách thửa nên hợp đồng không được xem là vô hiệu; Theo điều 129 Bộ luật dân sự 2015, đối với giao dịch dân sự buộc phải công chứng, chứng thực nhưng các bên không tuân thủ về hình thức, song đã thực hiện gần xong, thanh toán từ 2/3 giá trị trở lên thì không bắt buộc phải công chứng, chứng thực mà tòa án có thể công nhận hợp đồng. |