Người sử dụng lao đông không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động_cuocsongantoan.vn
Nếu trước đây, Điều 96 Bộ luật lao động 2012 (hết hiệu lực từ 01/01/2021) không có quy định, thì nay theo khoản 2 Điều 94 Bộ luật lao động 2019 quy định người sử dụng lao động (NSDLĐ) không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động (NLĐ); không được ép buộc NLĐ chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của NSDLĐ hoặc của đơn vị khác mà NSDLĐ chỉ định.
Có thể thấy, theo quy định mới, NLĐ có toàn quyền tự quyết chi tiêu lương của mình mà không bị hạn chế hay can thiệp bởi NSDLĐ.
Cùng với đó, mỗi lần trả lương cho NLĐ, NSDLĐ phải thông báo bảng kê trả lương, trong đó ghi rõ tiền lương, tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc vào ban đêm, nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có).
Quy định tại Điều 95 BLLĐ 2019 là một nội dung mới so với BLLĐ 2012. Ngoài ra, BLLĐ 2019 cũng nêu rõ NSDLĐ trả lương cho NLĐ căn cứ vào tiền lương đã thỏa thuận, năng suất lao động và chất lượng thực hiện công việc. Tiền lương ghi trong hợp đồng lao động và tiền lương trả cho NLĐ bằng tiền đồng Việt Nam, trường hợp NLĐ là người nước ngoài tại Việt Nam thì có thể bằng ngoại tệ.
Người sử dụng lao đông có nghĩa vụ phải trả phí mở tài khoản và phí chuyển tiền lương đối với hình thức trả lương cho NLĐ qua tài khoản ngân hàng_baodautu.vn.
Trong trường hợp NSDLĐ trả lương qua tài khoản cá nhân của NLĐ được mở tại ngân hàng thì NSDLĐ phải trả các loại phí liên quan đến việc mở tài khoản và chuyển tiền lương.
Như vậy, từ năm 2021, NSDLĐ có nghĩa vụ phải trả phí mở tài khoản và phí chuyển tiền lương đối với hình thức trả lương cho NLĐ qua tài khoản ngân hàng.
Điểm mới của BLLĐ 2019 NLĐ cũng cần biết là nếu NSDLĐ trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì phải đền bù cho NLĐ một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi NSDLĐ mở tài khoản trả lương cho NLĐ. Đây là quy định mới tại khoản 4 Điều 97 BLLĐ 2019 mà trước đay không quy định.
Về ngày nghĩ lễ Quốc khánh, trước đây BLLĐ 2012 chỉ cho phép NLĐ được nghỉ lễ Quốc khánh hưởng nguyên lương trong 01 ngày (ngày 2/9 dương lịch), thì nay theo điểm đ Khoản 2 Điều 112 Bộ luật lao động 2019, NLĐ sẽ được nghỉ lễ Quốc khánh 02 ngày (ngày 2/9 dương lịch và 01 ngày liền kề trước hoặc sau)
Từ năm 2021, người lao động nghỉ lễ Quốc kháng 2 ngày_vietnamplus.vn
Ngoài ra, theo điểm c khoản 1 Điều 115 BLLĐ 2019 thì NLĐ được nghỉ việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương trong trường hợp “cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi chết”.
Trong trường hợp này NLĐ phải thông báo với NSDLĐ khi thuộc các trường hợp nghỉ việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương theo quy định tại Khoản 1 Điều 115 Bộ luật lao động 2019.
Tiền lương ngừng việc cũng là điểm mới tại Điều 99 BLLĐ 2019. Theo đó, trường hợp phải ngừng việc vì sự cố về điện, nước mà không do lỗi của NSDLĐ hoặc do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa, di dời địa điểm hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế thì hai bên thỏa thuận về tiền lương ngừng việc như sau: Nếu ngừng việc từ 14 ngày làm việc trở xuống thì tiền lương ngừng việc được thỏa thuận không thấp hơn mức lương tối thiểu; nếu phải ngừng việc trên 14 ngày làm việc thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng phải bảo đảm tiền lương ngừng việc trong 14 ngày đầu tiên không thấp hơn mức lương tối thiểu.
Từ năm 2021, theo điểm b khoản 2 Điều 35 và khoản 4 Điều 97 BLLĐ 2019, NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước nếu không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng và NSDLĐ phải đền bù cho NLĐ một khoản tiền do chậm trả lương theo quy định.