Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) cho biết, trong tháng 5, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 4,85 tỷ USD, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó, nhóm nông sản đạt 2,42 tỷ USD, tăng 27,8%; chăn nuôi đạt 44 triệu USD, tăng 25,5%; thủy sản đạt 900 triệu USD, giảm 14,4%; lâm sản đạt 1,31 tỷ USD, giảm 12,3%; đầu vào sản xuất đạt 178 triệu USD, giảm 16,1% và muối đạt 0,5 triệu USD, giảm 8,6%.
Như vậy, tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 20,26 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, nhóm nông sản đạt 10,3 tỷ USD, tăng 9,9%; chăn nuôi đạt 190 triệu USD, tăng 34,5%; thuỷ sản 3,47 tỷ USD, giảm 25,9%; lâm sản đạt 5,52 tỷ USD, giảm 26,8%; đầu vào sản xuất đạt 779 triệu USD, giảm 25,9% và muối đạt 2,0 triệu USD, giảm 11,9%.
Xuất khẩu nông lâm thủy sản trong 5 tháng thu về 20,26 tỷ USD. Ảnh minh họa
Trong khi nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm ngoái, như: Cà phê 2,02 tỷ USD, tăng 0,2%; rau quả 1,97 tỷ USD, tăng 39,0%; hạt điều 1,28 triệu USD, tăng 5,5%; thịt, phụ phẩm 58 triệu USD, tăng 59,1%..., nhất là gạo đạt 2,02 tỷ USD, tăng 49,0%.
Bên cạnh đó, cũng có những mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm ngoái, như: Cao su 799 triệu USD, giảm 24,0%; chè đạt 65 triệu USD, giảm 18,9%; hồ tiêu đạt 414 triệu USD, giảm 9,9%; sắn và sản phẩm sắn đạt 539 triệu USD, giảm 14,3%; cá tra 690 triệu USD, giảm 40,7%; tôm 1,22 tỷ USD, giảm 34,4%, gỗ và sản phẩm gỗ 5,1 tỷ USD, giảm 27,3%; mây, tre, cói thảm 298 triệu USD, giảm 28,4%...
Giá xuất khẩu bình quân một số nông sản xuất khẩu chính giảm so với cùng kỳ năm ngoái, cụ thể: Hồ tiêu 3.011 USD/tấn, giảm 34,9%; phân bón các loại 415 USD/tấn, giảm 35,2%; cao su 1.378 USD/tấn, giảm 21,5%; sắn và sản phẩm từ sắn 382 USD/tấn, giảm 12,0%... riêng giá gạo đạt 517 USD/tấn, tăng 5,8%; cà phê đạt 2.295 USD/tấn, tăng 2,4%.
Về thị trường xuất khẩu, 5 tháng đầu năm 2021, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Trong đó, giá trị xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng 20,4%, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái; giá trị xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ chiếm 19,8%, giảm 35,2% và Nhật Bản chiếm 7,8%, giảm 1,2%.
Bộ NN&PTNT đánh giá các thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn của Việt Nam đang dần tăng trưởng trở lại như: Trung Quốc mở cửa trở lại; xuất khẩu sang Nhật Bản, khu vực châu Á tăng trở lại.
Tuy nhiên, kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, lạm phát cao tại một số quốc gia phát triển, các chính sách thắt chặt tiền tệ, nhất là ở các thị trường lớn như Hoa Kỳ và châu Âu khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong ký kết và thực hiện các đơn hàng.
Xung đột Nga - Ukraine tiếp tục diễn biến phức tạp,... cùng với đó, nhiều quốc gia thực thi chính sách tăng cường bảo hộ sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước; đẩy mạnh sản xuất nông sản để chủ động nguồn cung khiến việc xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
Bộ NN&PTNT cho biết trong nước đang có nguồn cung trái cây dồi dào khi nhiều loại cây (xoài, sầu riêng, mít, chanh, vải) sắp vào vụ thu hoạch. Tuy nhiên, thời tiết diễn biến bất thường, nguy cơ thiếu nước phục vụ sản xuất nông lâm thuỷ sản và cháy rừng rất cao ở nhiều địa phương; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh nông lâm thuỷ sản.