Cà phê giảm giá phiên cuối tuần
Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê ngày 15/6 được thu mua với mức 119.500 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê trong hôm nay cũng chỉ ở mức 120.500 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 120.400 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 120.700 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 120.600 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 120.400 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 120.300 đồng/kg. Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 120.300 đồng/kg.
Như vậy, thị trường cà phê trong nước giảm so với cùng thời điểm hôm qua (14/6).
Trên thị trường thế giới, kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta tại London giao tháng 7/2024 giảm 106 USD/tấn, ở mức 4.115 USD/tấn, giao tháng 9/2024 giảm 84 USD/tấn, ở mức 4.009 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica giao tháng 7/2024 giảm 1,9 cent/lb, ở mức 224,15 cent/lb, giao tháng 9/2024 giảm 1,85 cent/lb, ở mức 224,4 cent/lb.
Giá cà phê 2 sàn cùng giảm phiên cuối tuần. Theo chuyên gia Nguyễn Quang Bình, lực bán mạnh trên sàn Robusta lúc cuối phiên kéo cả 2 sàn đi xuống. Giá cà phê cũng đang bị áp lực bởi vụ thu hoạch tại Brazil đang diễn tiến thuận lợi và nhanh hơn.
Rạng sáng 15/6 trên thị trường Mỹ, chỉ số US Dollar Index (DXY) đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) tăng 0,32%, đạt mốc 105,52. Đồng USD đã tăng lên mức cao nhất gần 7 tuần phiên giao dịch vừa qua, khi các nhà giao dịch đặt cược vào việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ chỉ cắt giảm lãi suất một lần trong năm nay. Nhiều thông tin tiêu cực đẩy cà phê giảm mạnh phiên cuối tuần.
Tuy vậy xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã giảm liên tiếp trong 4 tháng trở lại đây, dấu hiệu cho thấy tồn kho trong nước không còn nhiều. Lũy kế 5 tháng đầu năm, xuất khẩu cà phê đạt 817.154 tấn với trị giá thu về hơn 2,8 tỷ USD, so với cùng kỳ năm 2023 giảm 5,8% về lượng nhưng tăng tới 40,9% về trị giá nhờ giá tăng cao.
Kết thúc 8 tháng đầu niên vụ 2023-2024 (tháng 10/2023 đến tháng 5/2024) Việt Nam đã xuất khẩu gần 1,2 triệu tấn cà phê, tương đương 80% sản lượng của niên vụ hiện tại và giảm 7% so với cùng kỳ niên vụ trước.
Hồ tiêu giảm 3.000 - 5.000 đồng/kg
Giá hồ tiêu trong nước hôm nay 15/6 giảm mạnh từ 3.000 - 5.000 đồng, qua đó đưa nông sản này rơi về ngưỡng 157.000 đ/kg.
Cụ thể, Đắk Lắk giảm 3.000 đồng/kg, thu mua hồ tiêu về giá 157.000 đồng/kg; giá hồ tiêu Đắk Nông trong ngày 15/6 cũng giao dịch xuống mức 157.000 đồng/kg; giá tiêu Gia Lai hôm nay tăng lên ngưỡng 155.000 đ/kg, sau khi giảm 5.000 đồng/kg.
Còn tại Đồng Nai, thương lái đang thu mua hồ tiêu ở mức giá 155.000 đồng/kg; giá hồ tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu đang leo lên ngưỡng 157.000 đ/kg, giảm mạnh 4.000 đồng; Bình Phước giao dịch hồ tiêu ở giá 156.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg.
Đối với mặt hàng cà phê, giá nông sản này cũng giảm mạnh khi mất tới 2.000 đồng và hiện đã giao dịch về quanh ngưỡng 119.500 - 120.700 đ/kg.
Thời gian qua, giá tiêu đen tại thị trường nội địa tăng mạnh do nguồn cung hạn chế, cầu tăng mạnh. Mặc dù giá tiêu được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, nhưng cơ quan quản lý khuyến cáo không nên ồ ạt mở rộng diện tích trồng mà tập trung đầu tư, chăm sóc theo hướng thâm canh để cây hạt tiêu phát triển bền vững và ổn định.
Trên thế giới, thị trường hồ tiêu ngày 15/6 tiếp tục giảm tại Indonesia và Brazill. Theo đó, giá hạt tiêu đen Lampung tại Indonesia giảm 0,53%; về mức 6.418 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này giảm 0,54%; ở ngưỡng 8.377 USD/tấn.
Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia duy trì ổn định ở mức 4.900 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này vẫn có giá 7.300 USD/tấn.
Đối với thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 giảm thêm 300 USD; về mức 7.900 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu loại 500g/l giao dịch tại mức 7.800 USD/tấn; còn loại 550g/l giữ ở ngưỡng 8.000 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu neo ở mốc 12.000 USD/tấn.
Các chuyên gia ngành hàng đánh giá, việc giá điều chỉnh là cần thiết để giúp thị trường trở nên cân bằng hơn. Tuy nhiên, mặt bằng giá khó có thể giảm sâu khi giá tiêu đã bước vào chu kỳ tăng giá mới, có thể kéo dài 8 - 10 năm, trong bối cảnh nguồn cung tiêu trên toàn cầu xuống thấp nhưng nhu cầu đang tăng trở lại.
Theo dữ liệu của Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), tính đến hết tháng 5/2024, Việt Nam đã xuất khẩu 114.424 tấn hồ tiêu, tương đương gần 70% sản lượng của niên vụ hiện tại. Điều này khiến nguồn cung ngày càng thu hẹp, lượng tiêu dành cho xuất khẩu không còn nhiều trong khi mùa thu hoạch năm 2025 vẫn còn 8 tháng nữa mới đến.
Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng nhập khẩu tiêu từ các nước khác để chế biến. Tuy nhiên, việc mua nguyên liệu từ nước ngoài cũng gặp không ít khó khăn do giá tiêu thế giới tăng cao và sản lượng tiêu từ các quốc gia sản xuất lớn khác như Brazil, Ấn Độ, Indonesia… đều sụt giảm.
Dữ liệu của Hiệp hội Hồ tiêu quốc tế (IPC) cho thấy, giá tiêu đen ASTA 570 của Brazil đang được giao dịch ở mức 8.300 USD/tấn, tăng gần gấp 2,5 lần so với đầu năm nay.
Giá gạo giảm nhẹ
Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, giao dịch chậm, giá lúa tươi vững. Tại Long An giá đi ngang, giao dịch ít. Tại Hậu Giang, lúa Đông Xuân còn ít, giá neo cao. Tại Cần Thơ nhiều thương lái không mua vì chất lượng lúa sau thu hoạch kém.
Cụ thể, theo cập nhật từ Sở NN&PTNT tỉnh An Giang lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 7.400 - 7.500 đồng/kg; Nếp Long An (khô) ở mức 9.500 - 9.700 đồng/kg; lúa Đài thơm giá 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ổn định 7.600 - 7.700 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa OM 380 dao động 7.500 - 7.600 đồng/kg. Lúa Nhật ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 giá 7.600 - 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg; Nếp đùm 3 tháng (khô) 8.800 - 9.000 đồng/kg.
Tại thị trường gạo, giá gạo hôm nay có điều chỉnh. Ghi nhận tại các địa phương như Hậu Giang, Đồng Tháp, An Giang, giao dịch lai rai, gạo đẹp ít, giá vững, kho mua chậm. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 dao động quanh mốc 10.600 - 10.800 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 giảm 100 đồng ở mức 12.8000 - 12.900 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm hôm nay có điều chỉnh. Hiện giá cám khô có giá ở mức 7.100 - 7.200 đồng/kg giảm 100 đồng so với ngày hôm qua. Theo đó, giá tấm IR 504 ổn định ở mức 9.900 - 10.000 đồng/kg giảm 100 đồng so với ngày hôm qua.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có điều chỉnh giảm. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 570 USD/tấn giảm 3 USD; gạo 25% tấm ở mức 549 USD/tấn giảm 3 USD; gạo 100% tấm giảm USD định ở mức 475 USD/tấn.
Giá ngô ghi nhận tuần giảm mạnh nhất
Trong báo cáo tháng 5, Cơ quan Cung ứng Mùa vụ của chính phủ Brazil (CONAB) đã nâng dự báo sản lượng ngô niên vụ 2023 - 2024 lên mức 111,64 triệu tấn, cao hơn so với so với mức 110,96 triệu tấn trong ước tính tháng trước. Mặc dù cơ quan này cắt giảm dự báo năng suất niên vụ 2023 - 2024 xuống còn 5,42 tấn/héc-ta, tuy nhiên, sản lượng ngô của Brazil vẫn tăng do diện tích gieo trồng được nâng lên 1,3% so với báo cáo trước. Nguồn cung cao hơn từ Brazil là yếu tố đã góp phần thúc đẩy lực bán đối với ngô.
Bên cạnh đó, báo cáo Tiến độ mùa vụ (Crop Progress) ngày hôm qua của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho thấy, tính đến ngày 12/5, nông dân nước này đã trồng 49% diện tích ngô dự kiến, ngang với kỳ vọng của thị trường, tăng mạnh 13% trong tuần qua. Điều này cho thấy nông dân Mỹ đã đẩy mạnh gieo trồng và thị trường đang kỳ vọng khoảng cách so với các niên vụ trước sẽ dần thu hẹp trong những tuần tới.
Trên thị trường nội địa, ghi nhận trong sáng hôm qua (14/5), giá ngô Nam Mỹ nhập khẩu về cảng nước ta điều chỉnh tăng nhẹ. Cụ thể, giá chào bán ngô kỳ hạn giao quý III năm nay tại cảng Cái Lân dao động quang mức 6.500 - 6.550 đồng/kg. Trong khi đó, giá chào bán tại cảng Vũng Tàu ghi nhận thấp hơn khoảng 50 đồng/kg.
Giá cao su giảm sâu
Giá cao su hôm nay ghi nhận, giá cao su tiếp đà giảm trên hai sàn giao dịch TOCOM và SHFE.
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 0,79% xuống mức 338,8 yen/kg tại thời điểm khảo sát.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 1,05% ở mức 15.030 nhân dân tệ/tấn.
Theo Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 4 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 2,41 triệu tấn cao su (HS 4001, 4002, 4003, 4005), với trị giá 3,84 tỷ USD, giảm 14,4% về lượng và giảm 7,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Trong 4 tháng đầu năm 2024, trong khi nhập khẩu từ Thái Lan và Việt Nam giảm, nhập khẩu từ nhiều thị trường khác tăng so với cùng năm 2023. Trong 4 tháng đầu năm 2024, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc với 457,51 nghìn tấn, trị giá 641,62 triệu USD, giảm 8,2% về lượng và giảm 5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Thị phần cao su Việt Nam chiếm 18,93% trong tổng lượng nhập khẩu của Trung Quốc trong 4 tháng đầu năm 2024, cao hơn so với mức 17,65% cùng kỳ năm 2023, thông tin từ Bộ Công Thương Việt Nam.
Việt Nam là thị trường cung cấp cao su tự nhiên lớn thứ 4 cho Trung Quốc với 78,71 nghìn tấn, trị giá 96,11 triệu USD, tăng 48,9% về lượng và tăng 58,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Thị phần cao su tự nhiên của Việt Nam chiếm 11,29% trong tổng lượng cao su tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc, cao hơn so với mức 6,15% của 4 tháng đầu năm 2023.
Sầu riêng Ri6 giảm còn 50.000 đồng/kg
Ghi nhận tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ cho thấy giá sầu riêng lao dốc từ đầu tháng 5. Hiện giá mua xô tại vườn với Ri6 là 45.000-50.000 đồng, Thái là 60.000-70.000 đồng. Còn với hàng bán tại kho, Ri6 loại A có giá 60.000-65.000 đồng, Thái Monthong là 75.000-78.000 đồng. Mức giá trên giảm nhẹ so với cùng kỳ và giảm hơn một nửa so với mức đỉnh tháng 2.
Theo ông Mạnh Khương - chủ cơ sở thu mua sầu riêng ở Cần Thơ - hàng đang vào chính vụ là nguyên nhân khiến giá giảm mạnh. Ri6 khá dồi dào, hàng Monthong tại Đông Nam Bộ cũng đang cho thu hoạch nên cung đang cao hơn cầu.
Đại diện Công ty Vạn Hòa cũng cho biết nguồn cung sầu riêng ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long tăng so với đầu năm. Ngoài ra, trên thị trường, hàng Thái đã vào vụ nên cạnh tranh mạnh với hàng Việt, đẩy giá đi xuống.
Theo thông tin từ Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), 4 tháng đầu năm, xuất khẩu sầu riêng đạt hơn 500 triệu USD, tăng khoảng 30% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trung Quốc vẫn là quốc gia tăng mua sầu riêng Việt Nam. Năm nay, nhiều khu vực bị ảnh hưởng bởi thời tiết nên cho sản lượng thấp. Tuy nhiên, nhiều khu vực ở Tây Nguyên vẫn cho năng suất cao nhờ nhiều địa phương áp dụng kỹ thuật tốt và tưới tiêu đúng thời điểm.
Năm 2023, Việt Nam xuất khẩu 2,3 tỷ USD sầu riêng sang các thị trường, trong đó, Trung Quốc chiếm 87%. Năm nay, xuất khẩu loại nông sản này có thể đạt 3,5 tỷ USD nếu Trung Quốc sớm chấp thuận cho sầu đông lạnh xuất chính ngạch.
Sở Nông nghiệp các tỉnh đang khuyến cáo người dân nên chăm sóc và cắt trái đúng quy trình để hàng đạt chất lượng khi xuất khẩu, bán trong nước. Người trồng nên sử dụng phân bón và thuốc đúng liều lượng, tiêu chuẩn cho phép vì hiện Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ vấn đề này.
Bơ 034 mất mùa, rớt giá mạnh
Năm nay, người nông dân Đắk Nông đang bước vào vụ thu hoạch bơ với nhiều lo âu khi loại cây trồng này vừa mất mùa, vừa rớt giá.
Nông dân ở đây cho biết, năm nay, vườn bơ của gia đình họ chỉ đạt khoảng 20 tấn quả/ha, giảm khoảng 9 tấn/ha so với mọi năm.
Nguyên nhân cây bơ mất mùa là do thời tiết diễn biến không thuận lợi. Trong đó, trời mưa, gió nhiều vào thời kỳ cây bơ 034 ra hoa, nên lượng quả đậu thấp.
Không chỉ có sản lượng bơ 034 đạt thấp mà việc tiêu thụ bước đầu cũng không mấy thuận lợi. Hiện giá bán tại vườn khoảng 12.000 đồng/kg, thấp hơn 4 ngàn đồng/kg so với năm trước.
Theo các chủ vựa thu mua bơ tại huyện Đắk R’lấp (Đắk Nông) thì giá các loại bơ hiện không cao, thậm chí còn có xu hướng giảm so với năm trước. Buồn nhất là giá bơ 034, được xem là đặc sản của các loại bơ nhưng giá giảm khá nhiều. Hơn nữa, giá cả xuống thấp và nguồn cung cũng không dồi dào như mọi năm, chất lượng bơ cũng không cao.
Giá măng cụt giảm 10.000 đồng/kg so với cùng kỳ
Theo thông tin từ các nhà vườn trồng măng cụt trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, năm nay măng cụt cho trái trễ, năng suất giảm từ 20-30%, giá cũng giảm bình quân 10.000 đồng/kg so cùng kỳ năm 2023.
Cuối tháng 4/2024, giá bán lẻ măng cụt chín tại vườn 90.000 đồng/kg (loại 8-9 trái/kg). Đến ngày 14/5, giá măng cụt chín giảm còn 40.000-50.000 đồng/kg.
Theo các nhà vườn trồng măng cụt tại Kiên Giang, giá măng cụt sẽ còn giảm khi vào vụ thu hoạch rộ.
Năm nay thời tiết nắng nóng khiến măng cụt cho trái muộn và sản lượng cũng giảm khoảng 20-30% so năm ngoái. Hiện măng cụt chín tại vườn bán giá từ 40.000-45.000 đồng/kg, giảm khoảng 10.000 đồng/kg so cùng kỳ năm ngoái.
Trong khi đó, măng cụt xanh không còn được săn lùng như năm ngoái, song tại một số vườn sinh thái, trên mạng xã hội, nhiều tài khoản cá nhân vẫn rao bán măng cụt sống với giá từ 90.000-100.000 đồng/kg loại còn nguyên vỏ. Loại măng cụt ruột xanh gọt sẵn, giá 350.000-400.000 đồng/kg, giảm khoảng 200.000 đồng/kg so cùng kỳ năm ngoái.
Giá ớt tăng cao
Ghi nhận trên thị trường, giá ớt chỉ thiên và ớt sừng vàng tại nhiều quận, huyện trên địa bàn TP Cần Thơ và một số tỉnh lân cận tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng từ 3.000-6.000 đồng/kg so với cách nay khoảng 1 tháng.
Ớt chỉ thiên loại 1 (đạt chuẩn xuất khẩu) đang được nông dân tại nhiều nơi bán cho thương lái và các vựa thu mua ớt ở mức 19.000-20.000 đồng/kg, trong khi trước đây ở mức 16.000-17.000 đồng/kg.
Ớt sừng vàng loại 1 từ 27.000-29.000 đồng/kg, nay tăng lên 32.000-35.000 đồng/kg. Giá ớt tăng do nhu cầu tiêu thụ ở mức cao và nguồn cung giảm vì người dân tại nhiều nơi giảm trồng, cũng như do gần đây năng suất và sản lượng nhiều vườn ớt giảm do thời tiết nắng nóng và các điều kiện thời tiết bất lợi cho cây trồng.