Cụ thể, tháng 8/2018 xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh về lượng và kim ngạch so với các tháng trước. Giá gạo xuất khẩu trung bình trong tháng 8/2018 đạt 489,1 USD/tấn, giảm 2% so với tháng 7/2018 nhưng tăng 12,6% so với tháng 8/2017. Giá trung bình trong 8 tháng đầu năm đạt 504,4 USD/tấn, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
8 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu gạo tăng mạnh cả về lượng và kim ngạch.
Thị trường dẫn đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam tiếp tục là Trung Quốc đạt 1,02 triệu tấn, tương đương 529,88 triệu USD chiếm 22,4% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
Giá gạo xuất sang Trung Quốc tăng 16%, đạt trung bình 521,2 USD/tấn. Riêng tháng 8/2018 xuất khẩu gạo sang thị trường này tăng mạnh 151,8% về lượng và 137,4% về kim ngạch so với tháng 7/2018, đạt 90.074 tấn, tương đương 38,98 triệu USD.
Trong khi đó, xuất khẩu gạo sang Indonesia trong tháng 8 sụt giảm rất mạnh, 99% về lượng và giảm 98,8% về kim ngạch so với tháng 7/2018, đạt 766 tấn, tương đương 458.876 USD. Nhưng tính chung cả 8 tháng đầu năm thì tăng rất mạnh gấp 50,2 lần về lượng và tăng gấp 67,1 lần về kim ngạch so với cùng kỳ, đạt 770.812 tấn, tương đương 361,88 triệu USD, chiếm 17% trong tổng lượng và chiếm 15,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước, đưa Indonesia lên vị trị trí lớn thứ 2 về tiêu thụ gạo của Việt Nam.
Philippines là thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm 13,5% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam và chiếm 12,2% trong tổng kim ngạch, đạt 610.101 tấn, tương đương 280 triệu USD, tăng 44,7% về lượng và tăng 67,4% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Giá xuất khẩu đạt 458,9 USD/tấn, tăng 15,7%. Tính riêng tháng 8/2018 xuất khẩu sang Philippines tăng mạnh 102,6% về lượng và tăng 86,7% so với tháng 7/2018, đạt 151.290 tấn, tương đương 62,87 triệu USD. Philippines cũng có nhu cầu nhập khẩu thêm 500.000-800.000 tấn từ nay đến cuối năm để bổ sung kho dự trữ đang cạn kiệt và ổn định giá gạo trong nước.
Ngược lại, xuất khẩu gạo sang các thị trường Senegal giảm mạnh nhất 99,6% về lượng và giảm 99,3% về kim ngạch, đạt 93 tấn, tương đương 56.953 USD. Bên cạnh đó, xuất khẩu cũng giảm mạnh ở một số thị trường như: Brunei giảm 95,2% về lượng và giảm 94,7% về kim ngạch, Bangladesh giảm 91,2% cả về lượng và kim ngạch. Ukraine giảm 81% về lượng và giảm 73,9% về kim ngạch. Chile giảm 94% về lượng và giảm 88,2% về kim ngạch.