Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 7/2020, sản lượng than đá nhập về Việt Nam lên tới 5 triệu tấn, trị giá 294 triệu USD, tăng gần 1 triệu tấn so với tháng 7/2019.
Lũy kế 7 tháng đầu năm, lượng than đá nhập khẩu về Việt Nam đạt gần 36 triệu tấn, kim ngạch 2,5 tỷ USD, tăng 49% về lượng và tăng 10,8% (hơn 250 triệu USD) về trị giá so với cùng kỳ năm 2019, đơn giá bình quân đạt 1,6 triệu đồng/tấn.
Các thị trường Việt Nam nhập than nhiều nhất là Indonesia, Nga và Trung Quốc.
Trong 7 tháng vừa qua, than được nhập nhiều nhất từ Indonesia với 11,2 triệu tấn, kim ngạch hơn 540 triệu USD, giá bình quân đạt hơn 1,1 triệu đồng/tấn.
Lũy kế 7 tháng đầu năm, lượng than đá nhập khẩu về Việt Nam đạt gần 36 triệu tấn, kim ngạch 2,5 tỷ USD, tăng 49% so với cùng kỳ năm 2019.
Riêng than nhập từ Trung Quốc về Việt Nam chỉ khoảng 140.000 tấn, nhưng giá lại rất cao, khoảng 6,2 triệu đồng/tấn, gấp 4 lần so với giá mua bình quân của các nước khác và giá trên thị trường.
Ở chiều ngược lại, 7 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu hơn 410.800 tấn than, giá trị 57 triệu USD. Giá bán bình quân 3 triệu đồng/ tấn, bằng một nửa giá than nhập từ Trung Quốc, và cao hơn 3 lần than nhập từ Indonesia.
Theo Tổng cục Hải quan, mặt hàng than xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là than chất lượng cao, còn than nhập từ Trung Quốc cũng là than chất lượng cao, phục vụ cho tinh luyện gang.
Các loại than nhập từ Indonesia, Nga chủ yếu là than cám, phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện, nhà máy điện trong các khu chế xuất, khu công nghiệp.
Nếu năm 2014, Việt Nam mới nhập 3,1 triệu tấn than, trị giá 364 triệu USD thì đến cuối 2019, lượng than nhập đã gấp 13 lần, với 43,5 triệu tấn tương đương 3,75 tỷ USD.
Nhập khẩu than của Việt Nam tăng nhanh vài năm gần đây là do nhu cầu tiêu dùng than ngày càng lớn, từ nhiệt điện, xi măng, sắt thép, hóa chất..., trong khi khai thác than trong nước gặp khó khăn, chi phí tốn kém do phải khai thác dưới độ sâu dẫn đến hiệu quả không cao.