Mặc dù Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã “quyết” giữ nguyên lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với ô tô, xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu (theo Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg ngày 1/9/2011), tuy nhiên để thực hiện theo chỉ đạo dứt khoát này của Thủ tướng còn nhiều việc ngổn ngang. Lỗi được chỉ ra là do sự thiếu chủ động của các bộ, ngành cũng như tâm lý chần chừ của DN.
6 năm cho một lộ trình
Tháng 9/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg (QĐ 49) quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô, xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Theo đó, các loại xe ô tô sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 4 từ ngày 1/1/2017; Tiêu chuẩn khí thải mức 5 từ ngày 1/1/2022. Các loại xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 3 từ ngày 1/1/2017.
Quyết định 49 được ban hành từ tháng 9/2011, tính đến thời điểm 1/2017 là gần 6 năm. Rõ ràng đây không phải là thời gian ngắn cho việc triển khai thực hiện. Tuy nhiên đến sát mốc các bộ, ngành chức năng liên quan mới “nhớ” tới.
Tháng 11/2016, cuộc họp do Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chủ trì với các bộ, ngành, DN kinh doanh xăng dầu, Hiệp hội sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) về việc thực hiện QĐ 49 cho thấy một thực tế “Các cơ quan quản lý và doanh nghiệp chưa đồng bộ triển khai hiệu quả”. Trong đó đáng lưu ý là: Chưa có sự chủ động trong sản xuất xăng dầu, hệ thống phân phối bán lẻ xăng dầu chưa sẵn sàng đáp ứng việc cung ứng xăng dầu mức độ 4, cũng như hệ thống bảo hành bảo dưỡng ô tô theo tiêu chuẩn khí thải mức 4 chưa được triển khai đồng bộ.
Chính vì vậy cuộc họp đã đi đến hướng thống nhất cụ thể như sau: Ô tô động cơ xăng thực hiện theo lộ trình quy định tại QĐ 49; ô tô du lịch, xe bus gắn động cơ diêzen áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 4 từ 1/1/2018 và ô tô tải gắn động cơ diêzen áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 4 vào năm 2022. Tuy nhiên để thực hiện được lộ trình đề xuất này là hàng loạt việc mà các bộ, ngành cần “phải làm”.
Cùng với đó ngày 5/1/2017, Bộ GTVT đã ra văn bản xin ý kiến các bộ ngành về việc sửa đổi QĐ 49, đề nghị lùi thời hạn áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 4 với một số dòng xe. Theo Bộ GTVT để phương tiện đáp ứng tiêu chuẩn khí thải mức 4 đòi hỏi phải có công nghệ phức tạp và giá thành cao nên chỉ những nước có nền công nghiệp tiên tiến mới sản xuất được. Vì vậy, Bộ GTVT đề nghị lùi lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 4 với một số dòng xe sử dụng nhiên liệu diêzen.
Ngày 23/12/2016, VAMA cũng đã có văn bản báo cáo Thủ tướng kiến nghị xin lùi thời hạn áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với các dòng xe sử dụng động cơ diêzen vì quan ngại rằng hiện vẫn chưa có nhiên liệu đáp ứng tiêu chuẩn khí thải mức 4.
Ngổn ngang
Mặc dù QĐ 49 đã nêu rõ thời điểm thực hiện từ 1/1/2017, nhưng trước thực tế “chậm trễ” của các bộ, ngành trong việc đáp ứng các điều kiện để thực hiện cùng nội dung thống nhất trong cuộc họp nói trên, văn bản đề xuất của Bộ GTVT… đã khiến hầu hết các DN nhập khẩu, lắp ráp ô tô đều có chung tâm lý “chưa chắc đã thực hiện” nên các đơn hàng đối với xe bus, xe tải sử dụng động cơ diêzen, động cơ diêzen để lắp ráp xe trong nước cho năm 2017 vẫn chưa được các DN “tính tới” tiêu chuẩn khí thải mới.
Đến ngày 31/12/2016, theo Bộ GTVT mới có 6 kiểu loại động cơ được kiểm tra chứng nhận đáp ứng tiêu chuẩn khí thải mức 4. Thống kê chưa đầy đủ từ cửa khẩu Lạng Sơn cho thấy từ đầu năm tới nay đã có khoảng 200 chiếc xe tải nhập khẩu về. Các xe này hầu hết không đáp ứng tiêu chuẩn Euro 4.
Theo quy định của Bộ GTVT, DN khi NK ô tô thì phải nộp cho Cục Đăng kiểm Việt Nam một bộ hồ sơ đăng ký kiểm tra lô hàng. Trên cơ sở này, Cục Đăng kiểm sẽ xem xét, đối chiếu hồ sơ đăng ký kiểm tra với các quy định hiện hành, nếu hồ sơ đăng ký kiểm tra chưa đầy đủ theo quy định thì cơ quan kiểm tra sẽ hướng dẫn tổ chức, cá nhân nhập khẩu bổ sung, hoàn thiện lại; Nếu hồ sơ đăng ký kiểm tra đầy đủ thì cơ quan kiểm tra sẽ xác nhận vào Giấy đăng ký kiểm tra, đồng thời thống nhất với tổ chức, cá nhân nhập khẩu về thời gian và địa điểm kiểm tra… DN khi gửi cho Hải quan bộ hồ sơ phải có xác nhận của Cục Đăng kiểm Việt Nam và Giấy đăng ký kiểm tra lô hàng của cơ quan đăng kiểm.
Trong 2 tháng đầu năm để tạo thuận lợi cho DN, Cục Đăng kiểm Việt Nam đã cấp mã số kiểm tra trong Giấy đăng ký kiểm tra lô hàng cho các lô hàng ô tô, động cơ ô tô NK, cũng như ô tô sản xuất trong nước chưa đạt tiêu chuẩn khí thải mức độ 4 (theo QĐ 49). Các lô hàng ô tô NK được phép quản lý tại kho của DN chờ quyết định của Thủ tướng.
Tuy nhiên từ đầu tháng 3, Cục Đăng kiểm Việt Nam đã dừng cấp các mã số kiểm tra này khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh, NK ô tô của nhiều DN “đóng băng”.
Trách nhiệm thuộc về ai?
Trái với dự tính của các bộ, ngành và DN, ngày 13/3/2017 Văn phòng Chính phủ đã có thông báo 126/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với nội dung “Giữ nguyên lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải tô tô xe máy” theo QĐ 49. Riêng ô tô chạy bằng nhiên liệu diêzen cho phép thực hiện đến 31/12/2017.
Tuy nhiên để thực hiện đúng theo chỉ đạo dứt khoát của Thủ tướng Chính phủ không đơn giản, bởi như đã nói chúng ta chưa có sự chủ động trong chuẩn bị thực hiện.
Hiện nay, xăng dầu tại Việt Nam được cung cấp từ Nhà máy Lọc dầu Dung Quất (LDDQ) và nhập khẩu. Theo báo cáo của Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN), Nhà máy LDDQ mỗi năm có thể sản xuất ra 2,48 triệu tấn xăng và 2,33 triệu tấn dầu diêzen (chiếm 30% thị trường), song các sản phẩm xăng dầu này không đạt được mức tiêu chuẩn Việt Nam QCVN4:2015/BKHCN (tương đương Euro 4). Liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn chuẩn bị đi vào sản xuất trong năm 2017 cũng có gần 4 triệu tấn dầu diêzen chưa đạt QCVN4:2015/BKHCN.
Phải tới tận năm 2021-2022, khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoàn tất nâng cấp, mở rộng mới có thể cung cấp nhiên liệu đạt mức tương đương Euro 4.
Thực tế ở nhiều nước trên thế giới, tiêu chuẩn về nhiên liệu thường đi trước tiêu chuẩn về khí thải. Nhưng hiện nay ở Việt Nam, tiêu chuẩn nhiên liệu đang đi sau tiêu chuẩn khí thải. Thị trường hiện chủ yếu cung cấp xăng dầu mức 2 được sử dụng cho các loại xe ô tô, xe mô tô hai bánh có lắp động cơ nhiệt đang lưu thông hiện nay. Petrolimex mới đang triển khai bán xăng mức 4 đáp ứng tiêu chuẩn khí thải mức 4 tại một số cây xăng ở các thành phố lớn, nhiều tỉnh miền núi xa xôi hiện chưa có xăng mức 4. Bộ GTVT cũng cho biết: Thị trường hiện nay hoàn toàn chưa có nhiên liệu diêzen đạt chất lượng mức 4.
Mặt khác do tâm lý chần chừ thực hiện nên nhiều DN sản xuất ô tô hiện chưa triển khai quy trình tập huấn đào tạo công nhân kỹ thuật trong sản xuất cũng như hoạt động bảo hành, bảo dưỡng sửa chữa cho các dòng ô tô áp dụng mức khí thải mới. Để triển khai hoạt động này đối với các DN lớn, có cơ sở sản xuất cũng như hệ thống đại lý trên toàn quốc cũng cần có thời gian từ 3 đến 6 tháng, đối với những DN nhỏ sản xuất trong nước thì không chỉ cần thời gian mà còn cần một lượng tài chính lớn để đầu tư.
Đó là chưa kể, công tác kiểm tra, đánh giá và thử nghiệm các mẫu xe mới sử dụng động cơ đạt tiêu chuẩn khí thải mức 4 tại Cục Đăng kiểm Việt Nam không thể đẩy nhanh tiến độ bởi cả nước chỉ có 1 Trung tâm thử nghiệm tại Hà Nội.
Việc chưa có sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để thực hiện lộ trình tiêu chuẩn khí thải mới, trách nhiệm chính được cho là do các cơ quan quản lý chức năng. Chính vì thế tại Thông báo 126, Thủ tướng yêu cầu các Bộ: Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ, Công Thương, Tài chính, các Tập đoàn: Dầu khí Việt Nam, Xăng dầu Việt Nam báo cáo kiểm điểm việc thực hiện các nhiệm vụ được giao trong Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg và các nhiệm vụ liên quan theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan.
Thực hiện lộ trình khí thải mới, theo Quy chuẩn của Bộ KHCN, trên thị trường có thể tồn tại 9 loại xăng không chì: RON90-II; RON92-II; RON95-II; RON92-III; RON95-III; RON98-III; RON92-IV; RON95-IV; RON98-IV (trước đây chỉ có 3 loại). Tương tự như vậy chủng loại sản phẩm đối với xăng E5 và E10 và điêzen cũng tăng lên gấp 3 lần. Như vậy, trên thị trường số chủng loại xăng dầu có thể sẽ tăng gấp 3 lần hiện nay. Điều này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước khi thực hiện quản lý về thuế, phí, chống gian lận thương mại; gây khó khăn cho các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu, các thương nhân phân phối xăng dầu do phải đầu tư thêm về hạ tầng hệ thống phân phối, hệ thống quản lý nội bộ; gây khó khăn cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn loại xăng dầu phù hợp. |