Giá cà phê tăng nhẹ
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 21/5/2024 giảm nhẹ, từ 17 - 19 USD/tấn so với phiên giao dịch trước, dao động từ 3.436 - 3.729 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 5/2024 là 3.729 USD/tấn; kỳ hạn giao hàng tháng 7/2024 là 3.499 USD/tấn; kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 3.436 USD/tấn; kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 3.361 USD/tấn; và kỳ hạn giao hàng tháng 1/2025 là 3.271 USD/tấn.
Trái ngược, giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 21/5/2024 tăng 0,30 cent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 7/2024 là 206,70 cent/lb; kỳ giao hàng tháng 9/2024 là 205,75 cent/lb; kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 204,75 cent/lb và kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 204,05 cent/lb.
Giá cà phê Arabica Brazil sáng ngày 21/5/2024 tăng giảm thất thường, dao động từ 248,05 - 257,95 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 5/2024 là 253,40 USD/tấn; kỳ giao hàng tháng 7/2024 là 257,95 USD/tấn; kỳ giao hàng tháng 9/2024 là 251,70 USD/tấn và giao hàng tháng 12/2024 là 248,05 USD/tấn.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Giá cà phê trong nước được cập nhật lúc 5 giờ ngày 21/5/2024 như sau, giá cà phê trong nước tăng từ 100 - 400 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 104.000 đồng/kg, giá mua cao nhất tại tỉnh Đắk Nông là 104.200 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum ở mức giá 103.800 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 104.200 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 103.500 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay (ngày 21/5) tại tỉnh Đắk Lắk; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 103.900 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 104.000 đồng/kg.
Việt Nam - nước xuất khẩu cà phê robusta lớn nhất thế giới trong tháng 4 chỉ xuất khẩu được 152,000 tấn, giảm đến 19,5% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều chuyên gia ước tính, lượng cà phê tồn kho của Việt Nam hiện nay chỉ còn khoảng 300,000 tấn và phải chờ đến tháng 10 mới có nguồn thu hoạch mới bổ sung.
Tâm lý trên thị trường dần ổn định sau khi các dữ liệu mới nhất cho thấy nhu cầu xuất khẩu cà phê vẫn lớn nhưng nguồn cung trong nước gần như đã cạn kiệt.
Xuất khẩu cà phê toàn cầu trong 6 tháng đầu niên vụ 2023 - 2024 (tính từ tháng 10 đến tháng 3) tăng 10,4% so với cùng kỳ niên vụ trước, đạt 69,2 triệu bao. Xu hướng tăng giá tiếp tục diễn ra trong tháng 4/2024 do thời tiết không thuận lợi tại Việt Nam khiến nguồn cung bị ảnh hưởng.
Lượng mưa không đủ ở Việt Nam và Brazil vẫn là đề tài khiến người ta lo lắng và bàn luận có thể hạn chế sản lượng và thúc đẩy hoạt động mua vào. Thực vậy, sự lo lắng trước nguồn cây bị tổn hại do thiếu nước trầm trọng đã kích hoạt những nguồn vốn cố thủ giữ vị thế mua trước mùa Đông, thậm chí còn mua vào thêm.
Đánh giá chung về tình hình nguồn cung, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2023 - 2024 sẽ tăng 4,2% so với niên vụ trước, đạt 171,4 triệu bao. Trong đó, sản lượng cà phê Arabica tăng 10,7%, đạt 97,3 triệu bao, nhưng sản lượng cà phê Robusta giảm 3,3%, còn 74,1 triệu bao.
Giá tiêu tiếp tục chững lại
Giá tiêu hôm nay ngày 21/5/2024, tại khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ tiếp tục chững giá.
Theo đó, giá tiêu Đắk Lắk được thu mua ở mức 111.000 đồng/kg, không thay đổi mức giá so với giá ngày hôm qua, giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) hiện ở mức 110.000 đồng/kg, giá tiêu Đắk Nông hôm nay ghi nhận vẫn ở mức giá 111.000 đồng/kg.
Tại khu vực Đông Nam Bộ giá tiêu hôm nay cũng không biến động. Theo đó, tại khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu và khu vực Bình Phước hiện vẫn ở mức 111.000 đồng/kg.
Như vậy, giá tiêu trong ngày hôm nay ghi nhận ngày thứ 3 đứng giá, dao động ở vùng giá 110.000 – 111.000 đồng/kg.
Ảnh minh họa. (Nguồn ảnh: Internet)
Thị trường đang chững lại 3 ngày qua, giao dịch cầm chừng. Từ đầu tháng 5/2024, giá tiêu nội địa đang tăng 13.000 đồng/kg. Giá hạt tiêu tăng cao là điều đáng mừng cho nông dân để bù lại cho những năm giá xuống quá thấp (2019 và 2020).
Với diễn biến giá hạt tiêu từ đầu năm đến nay, các chuyên gia đều nhận định thị trường đang vào chu kỳ tăng giá mới. Nguyên nhân chính là nguồn cung hạt tiêu hạn chế trên toàn cầu.
Sản lượng hạt tiêu giảm không chỉ ở Việt Nam mà cả ở những nước sản xuất tại châu Á là Indonesia, Ấn Độ, Malaysia, Sri Lanka. Một nước sản xuất hồ tiêu lớn nhất ở Nam Mỹ là Brazil cũng đang bị giảm sản lượng do tác động của El Nino. Sản lượng giảm trên toàn cầu đã bắt đầu hỗ trợ cho việc tăng giá hạt tiêu từ tháng 9, tháng 10/2023, và tăng mạnh kể từ sau Tết Giáp Thìn.
Với tình hình hiện tại, sản lượng hạt tiêu toàn cầu chưa thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng vẫn đang có xu hướng tăng lên trong 3 - 5 năm tới. Giá tiêu tăng, nhiều nông hộ có tâm lý đầu tư chăm sóc vườn trở lại hoặc trồng mới thêm diện tích. Tuy nhiên để tránh trồng ồ ạt, dẫn đến sản phẩm dư thừa, ngành nông nghiệp đang tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân về thị trường hồ tiêu và những rủi ro tiềm ẩn. Song song đó, địa phương cũng cần có quy hoạch rõ ràng về diện tích trồng, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, phòng ngừa sâu bệnh, gắn với thị trường đầu ra ổn định, bền vững cho cây hồ tiêu.
Cập nhật giá tiêu thế giới từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), thời điểm rạng sáng nay (giờ Việt Nam), giá tiêu Indonesia không đổi so với ngày hôm qua; giá tiêu Brazil đi ngang so với hôm qua, trong khi đó, Malaysia tiếp tục chững giá. Giá tiêu Việt Nam không thay đổi mức giá.
Cụ thể, giá tiêu đen Lampung (Indonesia) hôm nay vẫn giao dịch ở mức 4.934 USD/tấn, giá tiêu trắng (Indonesia) giao dịch ở mức 6.488 USD/tấn.
Giá tiêu đen Brazil ASTA 570 hôm nay ở mức 5.000 USD/tấn.
Giá tiêu đen Malaysia ASTA vẫn duy trì ở mức 4.900 USD/tấn; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn.
Giá tiêu các loại Việt Nam niêm yết hôm nay chững lại. Trong đó, giá tiêu đen Việt Nam loại 500 g/l hôm nay được giao dịch ở mức 4.600 USD/tấn; với loại 550 g/l giao dịch ở mức 4.700 USD/tấn; giá tiêu trắng ASTA giao dịch ở mức 6.600 USD/tấn.
Giá tiêu các loại trên sàn Kochi (Ấn Độ) hôm nay nhích tăng nhẹ so với hôm qua. Trong đó, loại Garbled giao dịch khớp ở mức 59.200 Rupee/100kg, loại UnGarbled ở mức 57.200 Rupee/100kg.