Cho thuê tài sản gắn liền với đất, mục đích để người thuê chăm sóc và thu hoạch. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, người thuê đã có hành vi vi phạm gây thiệt hại tài sản của người cho thuê nên họ đã khởi kiện ra tòa án với hy vọng quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ. Tuy nhiên, Tòa án đã không căn cứ vào điều luật cụ thể mà áp dụng pháp luật liên quan không rõ ràng và ban hành bản án thiếu thuyết phục.
Bên thuế đã có hành vi chặt 157 cây điều trị giá 47,1 triệu đồng của bên cho thuê
Theo đơn phản ánh của ông Nguyễn Hữu Thắng, trú tại tổ 7, ấp Long Hồ, xã Tân Hưng, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Ngày 29/12/2016 tại Văn phòng công chứng Vũ Thị Lan, tỉnh Bình Phước, ông Thắng cùng vợ là bà Đinh Thị Lệ Phương có ký hợp đồng thuê tài sản gắn liền với đất với ông Nguyễn Minh Bằng, trú tại tổ 12, ấp Long Hồ, xã Tân Hưng, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Tài sản thuê gồm có 02 giếng khoan, 01 máy bơm nước, 01 bơm tưới, 01 đầu bơm CKN N4, 01 đồng hồ điện nằm trên thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 675915 do UBND huyện Hớn Quản cấp ngày 11/4/2014, đứng tên người sử dụng đất hộ ông Nguyễn Hữu Thắng, thuộc thửa đất 282, tờ bản đồ số 03, diện tích 11.985,2m2 (tọa lạc tại ấp Sóc Ruộng, xã Tân Hưng, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước) và tài sản gắn liền với đất gồm có cây điều ghép, quýt đường, bưởi da xanh, ổi lê, thời hạn thuê là 77 tháng từ ngày 01/01/2017 đến ngày 30/5/2023 và giá thuê là 600 triệu đồng, mục đích là để chăm sóc và thu hoạch và bên thuê đã trả cho ông Thắng 500 triệu đồng.
Khi ký hợp đồng, các bên có thỏa thuận nếu một trong hai bên vi phạm sẽ phải bồi thường gấp đôi giá trị hợp đồng (tức là 1,2 tỷ đồng) và bên thuê phải có nghĩa vụ giữ gìn tài sản, sửa chữa những hư hỏng do mình gây ra, nếu bên thuê vi phạm làm tài sản hư hỏng nghiêm trọng thì bên cho thuê sẽ đơn phương đình chỉ hợp đồng.
Theo hợp đồng bên thuê là ông Nguyễn Minh Bằng, nhưng trên thực tế còn có ông Vũ Ngọc Khoát cùng thuê chung tài sản này. Trong quá trình thuê, thì bên thuê đã có hành vi chặt 157 cây điều lai, khi phát hiện sự việc ông Thắng đã báo chính quyền và được Công an xã Tân Hưng lập biên bản ngày 9/9/2019. Khi sự việc xảy ra, bên thuê không chấp nhận đền bù nên ông Thắng đã khởi kiện ra TAND huyện Hớn Quản để giải quyết và ông Vũ Ngọc Khoát tham gia với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Trong đơn khởi kiện, ông Thắng yêu cầu bên thuê phải bồi thường thiệt hại 157 cây điều và chịu phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận đã ghi trong hợp đồng là 1,2 tỷ đồng và yêu cầu tòa án tuyên chấm dứt hợp đồng thuê tài sản gắn liền với đất.
Quá trình giải quyết vụ án các bên đã thống nhất giá 157 cây điều đã chặt là 47,1 triệu đồng. Và tại phiên tòa ông Thắng đã rút một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bên thuê phải trả 600 triệu đồng tiền phạt vi phạm và vẫn giữ yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê tài sản gắn liền với đất ký ngày 29/12/2016 với ông Bằng.
Trong vụ án dân sự về "Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản gắn liền với đất", "thật bất ngờ" TAND huyện Hớn Quản áp dụng Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 để đưa ra mức trần phạt vi phạm 8% là chưa đảm bảo theo quy định. Bởi , Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 không quy định về vấn đề này!
Điều 418: Thỏa thuận phạt vi phạm 1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. 2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. 3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm. |
Ngày 26/5/2020, Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản ban hành bản số 13/2020/DS-ST do Thẩm phán Dương Quốc Thành ký. Tòa án nhận định hợp đồng thuê đất và tài sản gắn liền với đất giữa hai bên là tuân thủ đúng quy định của pháp luật, tại thời điểm giao kết hợp đồng hai bên đều có năng lực và hành vi dân sự, mục đích giao kết hợp đồng được pháp luật cho phép, việc thực hiện giao dịch của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm, không trái với đạo đức xã hội. Tuy nhiên, ở phần sau Tòa án lại cho rằng, Hợp đồng với nội dung nếu một trong hai bên vi phạm hợp đồng thì bồi thường gấp đôi giá trị hợp đồng tức là 1,2 tỷ đồng để yêu cầu phạt vi phạm là không phù hợp quy định của pháp luật về mức trần phạt vi phạm … việc thỏa thuận phạt vi phạm là quá cao so với thực tế. Tòa án đã áp dụng quy định mức trần phạt vi phạm là 8% trên nghĩa vụ của hợp đồng chưa thực hiện theo quy định của pháp luật liên quan và căn cứ vào khoản 3 Điều 418 Bộ luật dân sự để giải quyết.
Bản án số 13/2020/DS-ST ngày 26/5/2020 chỉ chấp nhận một yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc ông Thắng, bà Phương phải trả lại số tiền đã nhận thuê là 218.441.558 đồng cho ông Bằng, ông Khoát, tính đến hết ngày 26/5/2020, ông Thắng phải chịu án phí 25.215.000 đồng. Buộc ông Nguyễn Minh Bằng, ông Vũ Đức Khoát có nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn (Nguyễn Minh Bằng) số tiền 69.624.675 đồng.
Ông Thắng búc xúc nói: Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản đã không công tâm trong xét xử. Số tiền 281.558.442 đồng tôi không biết từ đâu ra và 8% là ở điều luật nào mà Hội đồng xét xử lấy đó làm căn cứ để bắt tôi phải trả lại tiền cho bị đơn. Ngoài ra, Tòa án tuyên buộc ông Bằng, ông Khoát trả cho nguyên đơn Nguyễn Minh Bằng, vậy ai sẽ là người trả cho tôi số tiền mà Tòa đã tuyên?
Trao đổi với chúng tôi, Luật sư Nguyễn Đăng Thông, Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh cho biết: “Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định, bản án của Tòa án trong phần quyết định phải ghi rõ các căn cứ pháp luật, quyết định của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án…Trong vụ án này tòa án huyện Hớn Quản áp dụng Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 để đưa ra mức trần phạt vi phạm 8% là chưa đảm bảo theo quy định".
Hiện ông Thắng đã kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước để đòi lại sự công bằng cho mình.