Nhu cầu năng lượng ở phụ nữ mang thai
Nhu cầu năng lượng trung bình ở phụ nữ 2.200 kcal/ngày. Phụ nữ mang thai trong ba tháng giữa cần tăng nhu cầu năng lượng thêm 360 kcal/ngày, trong ba tháng cuối cần thêm 475 kcal/ngày. Cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong quá trình mang thai để đảm bảo tăng cân cho bà mẹ.
Tốc độ tăng cân nên duy trì ở mức 0,4kg/tuần trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ đối với phụ nữ có cân nặng bình thường trước khi mang thai; tăng 0,5kg/tuần đối với phụ nữ có cân nặng thấp và 0,3kg/tuần đối với phụ nữ thừa cân.
Chất đạm: Chất đạm cần thiết để xây dựng bào thai, nhau thai, mô cơ thể mẹ. Nên ăn các thực phẩm giàu chất đạm như thịt cá, trứng, sữa, các loại đậu.
Chất béo: Chất béo cần thiết cho xây dựng màng tế bào và hệ thống thần kinh của thai nhi, cung cấp năng lượng và giúp hấp thu các vitamin tan trong dầu cho mẹ. Phụ nữ có thai cần lipid ở mức cao hơn bình thường. Nên sử dụng cả a-xít béo no và không no. a-xít béo no (có nhiều trong mỡ động vật, dầu dừa, dầu cọ) nhưng không nên dùng quá 10% năng lượng khẩu phần. Tăng cường sử dụng dầu thực vật (dầu nành, dầu lạc, dầu vừng, mỡ cá) để cung cấp nhiều a-xít béo không no.
Nhu cầu vitamin và các khoáng chất
Canxi: Canxi cần cho thai nhi xây dựng bộ xương và tạo răng. Nhu cầu canxi hàng ngày ở phụ nữ mang thai cần tăng thêm 300mg/ngày đạt 1.000mg/ngày. Thực phẩm chứa nhiều canxi như sữa và các sản phẩm từ sữa, cá, đậu, rau xanh. Sữa và các sản phẩm từ sữa như sữa chua, phomai, kem là nguồn cung cấp canxi tốt cho cơ thể
A-xít folic: Cần thiết cho sự phát triển bình thường của cơ thể. Khi thiếu a-xít folic ở phụ nữ có thai dễ gây ra thiếu máu dinh dưỡng hồng cầu và gây dị tật ống thần kinh ở thai nhi. a-xít folic có nhiều trong các loại rau có lá, bắp cải, bông cải xanh và trắng, cam, chuối, thận, trứng. Nhu cầu a-xít folic ở phụ nữ mang thai là 600µg/ngày.
Vitamin A: Thai phụ cần có một lượng vitamin A dự trữ đủ để cung cấp cho con và tăng sức đề kháng cho mẹ. Nhu cầu vitamin A của phụ nữ mang thai cao hơn so với bình thường, 800 µg/ngày. Vitamin A có nhiều trong các thực phẩm có nguồn gốc động vật: gan, lòng đỏ trứng, bơ, sữa, thịt… rau quả có màu xanh, màu vàng, đỏ.
Vitamin D: Vitamin D cần thiết cho sự hấp thu canxi và photpho, góp phần cấu tạo xương. Thiếu vitamin D sẽ dẫn tới nhuyễn xương, co giật do hạ canxi máu, loãng xương. Nguồn cung cấp vitamin D quan trọng cho cơ thể (80%) là do sự tổng hợp trong da dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Thực phẩm có nguồn gốc động vật giàu vitamin D là gan cá, trứng, bơ, sữa, các loại cá béo.
Ngoài ra, phụ nữ mang thai nên bổ sung đầy đủ các vi chất cần thiết như sắt, iốt để có một thai kỳ thật sự khoẻ mạnh.
Cân nặng hợp lý khi mang thai
Nếu mẹ mang thai nhưng không tăng cân đủ, em bé sinh ra sẽ bị thiếu cân và điều này sẽ khiến bé gặp phải rất nhiều rắc rối về sức khỏe sau này. Do đó, những hiểu biết về cân nặng, tăng bao nhiêu và khi nào là hết sức quan trọng.
Tăng cân khi mang thai
Trong quá trình kiểm tra trước sinh thường xuyên, mẹ nên tập trung vào thực tế là em bé có đang phát triển bình thường hay không thay vì lo lắng về con số trên thang điểm. Vì cân nặng của mẹ khó để xác định được đó là cân nặng thai nhi, cân nặng của chính mẹ hay lượng chất lỏng có trong cơ thể.
Tổng số calo cần thiết mỗi ngày trong thai kỳ phụ thuộc vào chiều cao của phụ nữ, cân nặng của cô ấy trước khi mang thai và mức độ hoạt động của cô ấy hàng ngày. Nhìn chung, phụ nữ thiếu cân cần nhiều calo hơn khi mang thai; phụ nữ thừa cân và béo phì cần ít hơn trong số họ.
Hướng dẫn của Viện Y học (IOM) về việc tăng cân hoàn toàn khi mang thai đủ tháng khuyến nghị rằng:
Phụ nữ thiếu cân, có Chỉ số khối cơ thể (BMI) dưới 18,5, nên tăng 28 đến 40 lbs. (12,7 đến 18 kg).
Phụ nữ có cân nặng bình thường, có chỉ số BMI từ 18,5 đến 24,9, nên tăng 25 đến 35 lbs. (11,3 đến 15,8 kg).
Phụ nữ thừa cân, có chỉ số BMI từ 25,0 đến 29,9, nên tăng 15 đến 25 lbs. (6,8 đến 11,3 kg).
Phụ nữ béo phì, có chỉ số BMI từ 30,0 trở lên, nên tăng 11 đến 20 lbs. (5 đến 9 kg).
Tỷ lệ tăng cân
Các hướng dẫn của IOM gợi ý rằng phụ nữ mang thai tăng từ 1 đến 4,5 lbs.(0,45 đến 2 kg) tổng số trong ba tháng đầu của thai kỳ. Các hướng dẫn khuyến cáo rằng phụ nữ nhẹ cân và bình thường tăng trung bình khoảng 0,45kg mỗi tuần trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba của thai kỳ. Đối với phụ nữ thừa cân và béo phì tăng khoảng một nửa con số đó mỗi tuần trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba của thai kỳ là tốt nhất.
Sinh đôi
Hướng dẫn của IOM về tăng cân khi mang thai khi phụ nữ sinh đôi như sau:
Thiếu cân: 50 đến 62 lbs. (22,6 kg đến 28,1 kg).
Trọng lượng bình thường: 37 đến 54 lbs. (16,7 đến 24,5 kg).
Thừa cân: 31 đến 50 lbs. (14 đến 22,6 kg).
Béo phì: 25 đến 42 lbs. (11,3 đến 19 kg).
Trong trường hợp mẹ bầu tăng cân quá nhiều, sẽ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tiểu đường thai kỳ, tăng huyết áp và nhiều trở ngại khi chuyển dạ, sinh con. Ngược lại nếu tăng cân quá ít, các mẹ sẽ gặp phải nguy cơ sinh non, trẻ thiếu cân (hoặc cả hai) đi cùng với vấn đề sinh khó. Do đó, tốc độ tăng cân ổn định là tốt nhất cho bản thân mẹ bầu, cho cơ thể, thai kỳ và nhất là cho con yêu bé bỏng. Hãy tăng thật ít cân trong ba tháng đầu thai kỳ và khoảng 0,45 kg mỗi tuần trong hai tháng cuối thai kỳ.